Thổ dân ở Canada

Thái Công Tụng

There are more than 630 First Nation communities in Canada, which represent
more than 50 Nations and 50 Indigenous languages


1.Dẫn nhập


Khi Christophe Coulomb đi tàu buồm khám phá My Chau, thoat đầu gặp các hai đao vùng Caribe (Haiti, Dominican Republic, Cuba), trơ về nước (Spain) co đem theo một vài thô* dân và chi* lúc đó dân Portugal mơi biết có một vùng đất khác có người ơ. Phong trào di dân nhập cư từ các vùng phía Nam Spain (Andalousia, Grenada) mới bắt đầu từ đó . Các tộc người đầu tiên ơ Mỹ Châu chính là người Á Châu (Bắc Á ngày nay như Đại Hàn, Nhật..) sau này quen gọi là dân da đo, ơ* Canada gọi chung là Premières Nations/First Nations .
Người Canada bản địa hay còn gọi là Thổ dân Canada, là những người dân bản địa trong ranh giới của Canada ngày nay. Chúng bao gồm các Premieres Nations, Inuit và Métis. Hiến Pháp Canada công nhận ba tộc người bản xứ là nguoi Indien ( nhưng nay thường gọi là Premieres Nations), người Inuit và người Metis . Cả 3 nhóm tộc người này có lịch sử riêng, ngôn ngữ riêng biệt, văn hoá và tín ngưỡng riêng biệt. Có riêng một Bộ trong nội các Canada lo về các tộc người này, gọi là Ministère des Affaires autochtones et du Nord Canada (anglais : Aboriginal Affairs and Northern Development Canada).
Tình trạng thổ dân Canada khác hẳn với bên Mỹ vì ở Mỹ, hiện nay, dân tộc da đỏ chỉ còn khoảng 1%. Họ sống ở những vùng có điều kiện tự nhiên rất khó khăn, như: các vùng núi cao, khô hạn ở phía Tây. Trong một thời gian dài, sự phân biệt, bức hại, kỳ thị, và một số lý do khác đã làm cho người bản địa có nguy cơ tuyệt chủng. Còn tại Canada, có nhiều tộc người đầu tiên đến đây lập nghiệp từ hàng ngàn năm ttước, khi eo biên Bhering Bắc Á giữa Alaska và Bắc Nhật Ban còn là một biên cạn. Người Âu châu (gốc Irlande, gốc Spain) dến My Châu chi sau khi Christophe Coulomb khám phá ra Mỹ Châu ! Thổ dân Canada bao gồm nhiều tộc trong đó có tộc Mohawk sống vùng biên giới Canada và Mỹ. Dân Métis có nguồn gốc từ giữa thế kỷ 17 khi người gốc Bắc Á (tới Canada hàng ngàn năm trước) kết hôn với người châu Âu đến đây phần lớn từ miền biên ơ Pháp (Bretagne, vùng cưa biê*n sông Loire).

Theo điều tra dân số năm 2016, thổ dân ở Canada tổng cộng 1.673.785 người, hoặc 4,9% dân số cả nước, với 977.230 người dân First Nations, 587,545 Métis và 65,025 Inuit. Ngày quốc gia bản địa dân tộc công nhận các nền văn hóa và đóng góp của những người thổ dân trong lịch sử Canada. Các dân First Nations,
dân Inuit và dân Métis thuộc mọi nguồn gốc đã trở thành những nhân vật nổi bật và đã giúp định hình bản sắc văn hóa Canada.

2. Vài tộc người thổ dân ở Quebec.

Tại tỉnh bang Quebec có 11 tộc bản xứ với 75 000 người sống rải rác trong 55 cộngđồng đóng góp cho tiến bộ phát triển văn hoá, chính trị và kinh tế . Ở Quebec, vẫn còn 9 ngôn ngữ của dân bản địa. Hiến Pháp Canada công nhận ba tộc người bản xứ là nguoi Indien ( nhưng nay thường gọi là Premieres Nations), người Inuit và người Metis . Cả 3 nhóm tộc người này có lịch sử riêng, ngôn ngữ riêng biệt, văn
hoá và tín ngưỡng riêng biệt. Có riêng một Bộ trong nội các Canada lo về các tộc người này, gọi là Ministère des Affaires autochtones et du Nord Canada ( anglais : Aboriginal Affairs and Northern Development Canada). Tình trạng thổ dân Canada khác hẳn với bên Mỹ vì ở Mỹ, hiện nay, dân tộc da đỏ chỉ còn khoảng 1%. Họ sống ở những vùng có điều kiện tự nhiên rất khó khăn, như: các vùng núi cao, khô hạn ở phía Tây. Trong một thời gian dài, sự phân biệt, bức hại, kỳ thị, và một số lý do khác đã làm cho người bản địa có nguy cơ tuyệt chủng.
Thống kê dân số Canada cho biết có 630 cộng đồng First Nations với dân số 1,048,405 nguời, 624 220 dân Metis và 50 ngôn ngữ ban xứ (Indigenous languages )

There are more than 630 First Nation communities in Canada, which represent more than 50 Nations and 50 Indigenous languages

Map description

The title of the map is “Winnipeg home to largest Indigenous population in Canada”

This is a map of Canada showing the census metropolitan areas with the largest Indigenous populations in 2021.

For the 10 census metropolitan areas with the largest Indigenous populations, vertical bars indicate the size of the Indigenous populations. The population count is presented as follows: Halifax, Nova Scotia, at 18,845; Montréal, Quebec, at 46,090; Ottawa–Gatineau, Ontario/Quebec, at 46,545; Toronto, Ontario, at 44,635; Winnipeg, Manitoba, at 102,080; Regina, Saskatchewan, at 24,525; Saskatoon, Saskatchewan, at 34,890; Edmonton, Alberta, at 87,600; Calgary, Alberta, at 48,625; and Vancouver, British Columbia, at 63,345.

Source(s): Census of Population, 2021 (3901).

Miền Đông Nam Phần va Miền Châu Thổ Sông Cửu Long

 THÁI CÔNG TỤNG

  1.  Miền Đông Nam Phần. Miền Đông Nam Phần là một vùng giao tiếp giữa miền Châu Thổ Cửu Long và Cao Nguyên Trung Phần. Ngoài những đồng bằng phù sa men theo sông Saigon và sông Đồng Nai, vùng này còn có những phù sa cổ sinh của hai sông trên, cũng là những vùng đất đỏ nối tiếp vùng cao nguyên.

1) Vùng Phù sa Cổ Sinh. Vùng này thường gọi nôm-ma là vùng “Đất Xám” chiếm rất nhiều diện tích ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa, Bình Tuy và Phước Tuy. Địa-diện vùng này thường bằng phẳng, nhưng có rất nhiều gò mối rải rác cùng mặt đất. Trong vùng đất xám, có những trũng đất thấp, những trũng này có thể là những “trũng tù” (dépression fermée) hoặc là những trũng tạo nên bởi sông suối.  Các trũng tù thường chỉ ở thấp hơn vùng đất xám. 1-2m, tuy nhiên tiểu địa hình (microrelief) nầy ảnh hưởng lớn đến hợp trạng của đất đai.

Các đất xám này là những phù sa của các sông ngòi lắng tụ trong một thời kỳ địa chất khá xưa (đầu đệ tứ nguyên đại Pléistocène). Sau thời kỳ lắng tụ ấy, có một thời kỳ soi mòn trong đó các sông ngòi đào sâu thêm những thung lũng. Hiện nay, người ta nhận thấy lại có một sự lắng tụ mới theo đó thì các thung lũng bị bồi đắp dần dần bởi các thủy tra phù sa.

Trong vùng đất xám, người ta dễ gặp ở một độ sâu vài thước những lớp đá latêritLớp latêrit này còn gọi là “đất Biên Hòa”, thường mềm khi ở dưới sâu, nhưng trở nên rất cứng lúc bị khô.

Đất-đai ở đây gồm 2 loại chính:

●       Đất podzolic xám nhiều cát pha thịt ở trên mặt, màu xám, có thủy cấp sâu.

●       Đất podzolic vàng đỏ có mức phì nhiêu cao hơn đất podzolic xám và chỉ giới hạn ở các bực thềm thấp gần sông Saigon.

Đất podzolic xám thích hợp với đậu phụng vào mùa mưa vì sa cấu cát pha thịt nhưng phải bón thêm phân hóa học và một ít vôi khi trồng đậu phụng. Vì nước đào quá sâu và lắm chỗ xa nguồn nước sông, suối nên hiện nay, người ta chỉ giới hạn trồng trọt hoa màu trong những thung lũng nhỏ giữa các ngọn đồi.

Để tận dụng đất podzolic xám, nên trồng cao su vì cao su có rễ sâu nên có thể kháng hạn và có thể hút các dưỡng liệu ở dưới sâu. Có thể khuếch trương diện tích trồng cao su ở các khu vực sau trên vùng phù sa cổ sinh.

●       Tây-Nam Trång-Bôm:6.000 ha

●       Vùng đất xám giữa An Lộc và Lộc Ninh: 30.000 ha

●       Bắc Tây Ninh: 100.000ha

Đất podzolic vàng đỏ cũng nên trồng cây đa niên như cây ăn trái, cao su hoặc cây hằng niên như đậu phụng, mía với điều kiện là phải gần nước tưới.

2) Vùng Phù sa Cận Sinh.Vùng phù sa cận sinh nằm dọc các sông ngòi: sông Saigon, sông Đồng Nai, sông Là Ngà. Đất-đai thường ẩm ướt nhiều chất hữu cơ. Đồng bằng các vùng này tựu-trung có những tính chất thông thường của một đồng bằng sông ngòi, nghĩa là đất men theo sông suối thì tương-đối cao hơn về địa hình, còn xa sông là đất ruộng thấp hơn. Nhiều nơi ruộng xa sông có những phần đất hữu cơ. Khả năng đa loại hóa vùng phù sa cận-sinh này rất lớn vì sông ngòi hầu như rất ít bị ảnh hưởng của nước mặn trừ phần hạ lưu của sông Đồng Nai và sông Saigon ở gần Nhà Bè. Đất phù sa men sông Saigon ở Dầu Tiếng (Tây Ninh) ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) là những nơi trồng cây ăn trái có tiếng (chôm chôm, sầu riêng, dâu, bưởi) hoặc dùng trồng lúa, mía. Gần Búng và Lái-Thiêu, một vài vùng đất phù sa có bị phèn nhưng nhờ lên líp chất phèn dễ bị trực di trôi đi. Phù sa ven sông La Ngà còn bỏ hoang nhiều, nhất là phía hữu ngạn và có thể xử dụng vào việc trồng mía, hoa màu phụ, cây ăn trái và ngư nghiệp (đào ao thả cá). Ở thượng lưu sông Đồng Nai, cách Ta Lai (km 125 Bắc Định Quán rẽ vào trái chừng 20 km về phía Tây Bắc có thung lũng Trodate nhiều đất phù sa hoàn toàn hoang vu vì không có đường giao thông. Trong tương lai, khi có đường sá, có thể định cư nông đân thêm ở đây vì diện tích vùng Trodate này quảng 6.000 ha.

3) Vùng Cao Nguyên Bình Phước (Bình Long và Phước Long). Vùng Bình Long, nghĩa là vùng Lộc Ninh, Hớn Quản là vùng đất đỏ bao bọc xung quanh bởi những phù sa đất xám. Trái lại vùng Phước Long toàn là đất đỏ. Cao độ vùng Phước Long chừng 200m.  Cao nguyên này bắt đầu từ mãi bên Cambodge, phía Bắc sông Bé và tràn về phía Đông Nam, qua khỏi quốc lộ 14 để sang địa phận tỉnh Bình Dương.

Độ sâu của các thung lũng đối với địa diện của toàn vùng biến thiên rất nhiều, nhưng phần lớn các thung lũng đều nằm khá sâu. Các phần đất bằng phẳng của cao nguyên có một diện tích khá biến thiên: ở phía Nam sông Bé (trục Molère từ ngoài quốc lộ I4 vào núi Bà Rá) thì các phần đất phẳng có một diện tích tương đối hẹp còn ở vùng phía Bắc sông Bé, diện tích đất bằng phẳng và rộng hơn.

Ở những vùng tiếp giáp giữa đất đỏ và đất xám, có nhiều lớp sỏi latêrit hiện ra trong trắc diện của đất-đai.

Vùng Cao Nguyên Bình Long – Phước Long có nhiều đất đỏ như Cao Nguyên Xuân Lộc, nhưng có cao độ lớn hơn vùng Xuân Lộc. Đồn điền cao su chiếm nhiều diện tích ở quanh tỉnh lỵ Bình Long và vùng Lộc Ninh. Tại Phước Long, cũng có những đồn điền cao su Đồng Xoài, Phú Riềng, Dakir, Budop. Tại Phước Long cũng có nhiều địa điểm dinh điền trồng lúa rầy, hoa màu phụ cây kỹ nghệ.

Vùng Phước Long có nhiều triển vọng khuếch trương nông nghiệp vì đất tốt còn bỏ hoang rất nhiều – đất đỏ phía Bắc Sông Bé, đất đỏ phía Đông quận lỵ Đôn Luân (Đồng Xoài cũ), các vùng đất tốt ven quốc lộ 14 lên tới ranh tỉnh Quảng Đức.

Các hoa màu thích hợp là cây ăn trái, café, cao su nghĩa là những cây đa niên do đó vấn đề soi mòn đất đai ít nguy hiểm hơn.

Diện-tích trồng cao su có thể khuếch trương tại Phước Long quãng 500.000 Ha.

4) Vùng Cao Nguyên Xuân Lộc. Cao Nguyên Xuân Lộc chiến một vùng đất đỏ nằm trong tỉnh Long Khánh. Cao độ biến-thiên từ 100 đến 200m, vùng này có địa diện tương đối phẳng chỉ trừ đây đó có điểm một vài ngọn núi (như núi Chứa Chan). Toàn vùng Cao Nguyên nầy có đá basalte ở lớp dưới sâu, tuy nhiên cũng có nhiều nơi có đá nầy ở ngay lớp mặt, đặc biệt là vùng phía Bắc Định Quản. Nhiều suối chảy qua vùng nầy bắt nguồn từ ngay trong cao nguyên nên thường ít nước về mùa nắng.

Cao Nguyên Xuân Lộc bao gồm phần lớn là những đất đỏ tại các vùng Gia Kiệm, Gia Tân, Hưng Lộc ra đến tận vùng giáp ranh với Bình Tuy.

Cao nguyên này có nhiều đồn điền cao su rất lớn như đồn điền Courtenay, đồn điền Suzannah cũng như nhiều làng do đồng bào di cư ở – người Việt, người Nùng và có trồng nhiều chuối, café, cây ăn trái và hoa màu phụ như đậu nành, bắp…Triển vọng nông nghiệp của cao nguyên này khá quan trọng vì có nhiều đất tốt lại gần thủ đô là nơi tiêu thụ nông sản rất mạnh.

Do đó, việc khuếch trương nông nghiệp sẽ dễ dàng. Đây là một vùng mà sự đa loại hóa nông nghiệp đã được thực hiện, tuy nhiên cũng có thể ghi thêm, là vùng này có khả năng trồng thuốc lá thơm (thuốc Virginie) vì thuốc lá thơm cần các nhà máy sấy bằng hơi nóng mà củi cao su ở đây lại có nhiều để có thể sấy thuốc lá được.

Tại Cao Nguyên Xuân Lộc, sau đây là các vùng có thể khuếch trương cao-su được:

●       Vùng Gia Kiệm – Dốc Mơ: 5.000 Ha

●       Vùng Cầm Mỹ – Cầm Đường:  8.000 Ha

●       Vùng Bắc Định Quán: 20 000 Ha

B. Miền Châu Thổ Sông Cửu Long. Châu thổ Cửu Long là vùng cổ địa hình rất bằng phẳng. Trừ một vài ngọn núi ở vùng Thất Sơn phía Tây Nam Long Xuyên, còn thì địa diện phẳng lì.

Căn cứ vào các điều kiện địa hình đất đai và thủy lợi, có thể phân biệt các đơn vị thiên-nhiên nhỏ sau đây:

1) Vùng Trung Châu Thổ.Vùng nầy còn gọi là vùng cựu thổ, gồm các tỉnh Định Tường, Long An, Vĩnh Long, Phong Dinh và các phần nội địa của các tỉnh Vĩnh Bình, Ba Xuyên, Gò Công, Kiến Hòa là các tỉnh trọng tâm trong sự sản xuất nông nghiệp tại miền châu thổ. Đất-đai toàn đất phù sa do sông Tiền và sông Hậu bồi đắp.

Địa diện bằng phẳng, chỉ trừ vài giống có đất cao như giống ở Bến Tranh, các giống ở Trà Vinh và các đất cao ven sông. Phần lớn ruộng vùng Trung Châu Thổ Cửu Long có thể làm 2 vụ lúa một năm vì nhờ nước sông và kinh rạch. Ngoài ra, rau cải, cây ăn trái, chăn nuôi heo, gà, nuôi cá đều có thể phát triển tại đây.

Tại vài vùng bị ảnh hưởng của nước mặn về mùa nắng (Gò Công, Kiến Hòa, Ba Xuyên), hiện nay vì thiếu hệ thống dẫn nước ngọt đến, nên mùa nắng đất đai đều bỏ hoang. Do đó các dự án Gò Công, Kiến Hòa rất quan trọng để tăng gia sản lượng nông nghiệp tại đây.

Ngoài lúa, dừa là một cây kỹ nghệ nên phát triển đặc biệt là trên đất men theo kinh rạch gần biển ở Gò Công, Trà Vinh, Kiến Hòa. Các loại cây ăn trái như mãng cầu xiêm, xoài, chôm chôm, sầu riêng đều trồng được.

Nhờ các phó sản của ngành trồng lúa, ngành chăn nuôi heo có sẵn thực phẩm để phát triển. Nhờ ruộng lúa, ngành nuôi vịt cũng gặp các điều kiện thuận lợi.

2) Vùng Chương Thiện – U Minh.  Vùng này gồm nhiều đất vừa acid, vừa nhiều chất hữu cơ và là vùng giao tiếp giữa đồng bằng phù sa nước ngọt phía Bắc và đồng bằng phù sa nước mặn ở Cà Mau. U Minh là vùng mà diện tích đất hữu cơ nhiều nhất tại Nam Việt Nam, có nhiều rừng tràm và chịu ảnh hưởng của nước mặn từ các kinh Cán Gáo, Kinh Trèm Trẹm chảy đến. Tỷ lệ chất hữu cơ trên lớp mặt có chỗ nhiều hơn 10%.

Vì lý do an-ninh, nhiều vùng đất còn bỏ hoang.

Hoa màu có khả năng phát-triển ở đây là khóm, khoai mì, khoai lang, rau cải.

Vùng Chương Thiện ít có đất hữu cơ, nhưng có nhiều đất phù sa hơi phèn, nhưng vẫn có thể trồng lúa vào mùa mưa, rau cải, hoa màu phụ vào mùa nắng tại những chỗ có nước ngọt.

3) Vùng Duyên Hải Nước Mặn. Miền này gồm những dãy đất duyên hải bị chi phối bởi nước mặn như các phần đất thuộc Quận Năm Căn, Quận Đầm Dơi ở An Xuyên, Quận Chá Rai, Quận Vĩnh Lợi ở Bạc Liêu, Quận Long Toàn, Quận Cầu Ngang ở Vĩnh Bình, Quận Bình Đại, Quận Ba Tri ở Kiến Hòa.

Đất đai ở đây là những đất mặn có nước thủy triều lên xuống hàng ngày và nhiều vùng còn có rừng Sát vì đất còn chưa cố định và gồm nhiều bùn mặn.

Đối với các phần đất phía trong nội địa hơn, thuộc các tỉnh trên, đất đai tuy cũng còn bị chi phối bởi nước mặn nhưng đã cố định và nông dân vẫn trồng lúa vào mùa mưa vì mùa nắng nước mặn trong sông rạch không thể dùng đề tưới nước.

Do đó, một cưỡng chế quan trọng về việc phát triển nông nghiệp tại đây là vấn đề thiếu nước ngọt để dẫn thủy. Hiện nay nhiều dự án Thủy Nông Tiếp Nhựt, Ba Tri, Kiến Hòa, Gò Công đã, đang hay sẽ được thực hiện và phương pháp căn bản là:

●       Tạo ra những đề bao ngạn quanh khu vực chỉnh trang để tránh sự xâm nhập do nước thủy triều đưa đến.

●       Đào mương để tháo nước mặn ra khỏi trắc diện.

●       Dẫn nước ngọt từ các vùng ở phía thượng lưu đến. Một khi có nước ngọt thì vấn đề phát triển nông nghiệp trong mùa nắng được dễ dàng và có thể trồng được nhiều hoa màu y như vùng đồng bằng phù-sa nước ngọt.

4) Vùng Đồng Tháp. Đồng-Tháp bao gồm phần lớn đất-đai 2 tỉnh Kiến Tường và Kiến Phong và đất đai có phản ứng rất chua (pH = 5-4) và úng-thủy vì ở một địa-diện thấp.

Đất phèn về mùa nắng có pH quãng 5; về mùa mưa, vì chất phèn trôi đi xuống sâu nên pH đất cao hơn (pH = 4-4,5) nhưng pH của nước kinh rạch lại thấp vì chất phèn bị trôi ra đây và nước sông rất trong vào mùa mưa do sự kết tủa chất Al.

Công tác chỉnh-trang đầu tiên tại vùng Đồng Tháp là đào kinh để chất phèn trôi khỏi trắc diện dễ dàng. Công tác đào kinh có nhiều mục đích như hạ bớt thủy cấp, làm sự trực di các chất độc dễ dàng hơn và sau đó có thể trồng các hoa màu kháng acid như thơm, khoai mì, rồi sau một vài mùa có thể trồng lúa hay cây kỹ nghệ có rễ cạn như kináp, bắp.

Các phương thức khai thác và quản trị đất có thể có nhiều phương pháp:

 a) Phương pháp đắp mô rồi lên líp để trồng. Thoạt đầu, phải đắp từng mô nhỏ, mỗi mô cao hơn mặt đất chừng 80cm và diện tích mặt mô chừng 2m2. Mô này cách mô kia quãng 5m để trồng các loại cây trên các mô đó.

Sau vài năm, đổ thêm đất để cho các mô đất dính liền lại và tiếp tục trồng thêm. Nhờ vậy, sau cùng ta có một líp đất và mương ở 2 bên. Nhờ líp đất đắp cao nên sự trực di các chất phèn dễ dàng hơn và nhờ mương nên các chất phèn có thể thoát xuống các mương chính và ra kinh rạch được.

b) Phương pháp đê bao ngạn và mương thoát thủy. Đê bao ngạn có nhiệm vụ là tránh nước phèn từ các nơi khác chảy vào khu vực định chỉnh trang. Đất lấy để đắp đê bao ngạn phải lấy từ bên trong chứ không thể lấy từ bên ngoài vì đất lấy bên trong khu vực định chỉnh trang sẽ được dùng để làm mương thoát thủy luôn. Mương này vừa dùng để hạ thủy cấp, vừa để thu thập các chất phèn trong khu vực,

Nông Xã Cải Thiện Mỹ Thới ở An Giang, Nông Xã Cải Thiện Cần Thơ và Mộc Hóa đã áp dụng phương pháp này.

Để tháo nước phèn trong mương, người ta:

●       Hoặc xử dụng máy bơm để bơm nước phèn ra kinh rạch hay sông ngòi lúc thủy triều xuống (nước ròng).

●       Hoặc kử dụng các ống như cây dừa rồng thân để tháo nước trong mương ra kinh bằng trọng lực.

Phương pháp sau này tốn kém hơn phương pháp thứ nhất và chỉ nên áp dụng ở các khu vực dễ bị lụt, còn nếu ở vùng ít lụt (Phong Dinh, Đức Hòa) thì chỉ nên áp dụng phương pháp thứ nhất cũng đủ.

Dù sao thì sau khi quản trị mực nước như trên để bớt chất phèn trong đất, pH đất sau vài năm sẽ tăng lên. Nhưng cũng cần bón thêm phân hóa học để tăng dưỡng liệu cho hoa màu,

Hoa màu có thể trồng được sau khi cải thiện là thơm, khoai mì (rất kháng acid) hoặc trồng lúa trong mùa mưa, rau cải mùa nắng. Về cây ăn trái có thể trồng mãng cầu xiêm tháp trên cây bình bát hay chuối.

5) Vùng đất miền Tây Châu Thổ. Miền Tây bao gồm đất đai các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Kiên Giang và một cách tổng quát, đó là tứ giác Châu Đốc – Long Xuyên – Rạch Giá – Hà Tiên. Đất ở đây gồm 2 loại chính: đất phù sa và đất phèn.

●       Đất phù sa ở dọc sông Bassac lan đến vùng Cái Sắn, Núi Sập.

●       Đất phèn ở các bưng thấp từ vùng chân núi Thất Sơn đến Hà Tiên lan rộng đến quận Kiên Lương,

Điều kiện thủy lợi ở đây rất đặc biệt vì hằng năm, nước bắt đầu dâng lên cao từ 15/7 âm lịch và chỉ rút xuống vào quảng cuối tháng 9 âm lịch, do đó đến nay chỉ trồng lúa nổi là một loại lúa có thể mọc vươn cao với mực nước.

Lúa nổi năng xuất kém (1T/Ha), chu kỳ dài (180 ngày) và cũng dễ bị mất mùa vì lụt.

Muốn cải-thiện nông-nghiệp ở đây, có thể trồng:

●       1 vụ lúa Thần Nông đầu mùa mưa và thu hoạch trước rằm tháng 7 âm lịch (trồng lúa Thần Nông 5 tháng 4 âm-lịch và thu hoạch 15 tháng 7 âm lịch).

●       Để đất không trồng trọt vào mùa nước dâng cao.

●       Trồng loại dưa hấu 15-10 âm lịch và thu hoạch dưa hấu để bán quảng 25-12 âm lịch.

●       Trồng lại bắp 5-1 âm lịch, thu hoạch 30 tháng 5 âm lịch.

Dĩ nhiên, cũng còn có thể trồng đậu nành, đậu xanh hay thuốc lá trong mùa nắng. Tuy nhiên, chỉ có thể thực hiện được sự thâm canh trên nếu có máy bơm để dẫn nước vào. Hiện nay vùng này thiếu rất nhiều kinh để đưa nước từ sông Bassac vào và một khi có kinh đem nước vào thì ở 2 bên bờ kinh sự bơm nước rất dễ dàng và sự đa canh hóa nông nghiệp mới dễ thực hiện.

6) Vùng Núi Thất Sơn. Núi Thất Sơn gồm các ngọn núi bao quanh vùng Trị Tôn, phía Nam Châu Đốc. Địa diện rất gồ ghề, đất nông cạn nhiều đá chỉ nên hướng lâm. Trái lại dưới chân núi có những loại đất ít chất hữu cơ và có đốm rỉ đã khai thác thành ruộng vườn trồng rau, đậu, hoa màu.

                       THÁI CÔNG TỤNG

—o0o—

Feedback on Tìm hiểu sinh thái nhân văn trong gia đình Việt Nam

Thái Công Tụng Tìm hiểu sinh thái nhân văn trong gia đình Việt Nam


The content delimitates the advantages and disadvantages of adopting a cloud-based infrastructure for businesses. It provides a good overview of the topic.

Actions to improve the content:

1. Include more specific examples to illustrate the advantages and disadvantages.

2. Add headers to make the content more scannable and easier to follow.

3. Include statistics or data to support the points made in the content.

4. Use bullet points or numbered lists to summarize the advantages and disadvantages.

Overall, the content is informative, but can be enhanced with these actions.

Nước và con người

GS. Thái Công Tụng

.

“Ngày Nước Thế giới” hay “Ngày Nước Sạch Thế giới” được tổ chức vào ngày 22 tháng Ba hằng năm trong tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc từ năm 1993, theo Nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, nhằm kêu gọi toàn thế giới quan tâm đến tầm quan trọng của tài nguyên nước; cụ thể, không sử dụng nước một cách lãng phí cũng như tránh làm ô nhiễm nguồn nước ngọt. Viện Nhân Quyền Việt Nam trân trọng giới thiệu bài Nước và Con Người của GS Thái Công Tụng.


Abstract
This paper examines the nature, properties, place, significance, importance, and role of water in the life and culture of this planet


1. Tổng quan

Các nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại, từ Platon đến Socrate xem Nước là nguồn gốc của mọi nguồn gốc. Theo Phật giáo thì vũ trụ do bốn cái lớn trong vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, còn gọi là Tứ Đại. Triết học Trung Hoa cho rằng nước là một trong năm yếu tố gọi chung là Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Nước vừa mềm mại, uyển chuyển nhưng có sức mạnh phi thường vì các địa mạo ta thường gặp như thung lũng, đèo cao, núi thẳm, châu thổ v.v… đều do nước bào mòn, chuyển vận, lắng tụ, bồi tích. Sách Thánh Kinh có nói về trận hồng thủy. Thần thoại nước ta cũng nói về Sơn Tinh, Thủy Tinh. Sử sách Việt nói về Lạc Long Quân. Theo giáo sư Lê Hữu Mục, thì các từ Lạc phải đọc là Đác và chữ Đác với thời gian trở thành Nác. Nác chính là từ cổ của chữ Nước ta nói ngày nay.

Thực vậy, nhiều vùng thôn quê ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị vẫn còn nói: uống nác (uống nước), khát nác (khát nước). Nhiều nhà văn hóa học Việt đều cho rằng nước là một đặc trưng hình thái của tư tưởng Việt Nam hay nói tổng quát hơn – của văn hóa Việt Nam.

Nước liên quan đến nhiều chức năng trong cơ thể: sự tiêu hóa, sự tuần hoàn, sự hô hấp, sự thải hồi. Các nhà khoa học dùng nước để tìm ra các hằng số quan trọng về vật lý như:

●       nước đông đặc ở 0 độ

●       nước sôi khi nhiệt độ là 100 độ C

●       1 lít nước cân nặng 1 kgam

●       tỷ trọng của nước là 1. Vật nào có tỷ trọng lớn hơn 1 thì chìm và vật nào có tỷ trọng nhỏ hơn 1 thì nổi. Nước có mặt ở cả ba dạng vật lý: lỏng, đặc và hơi.

Với dân số bùng nổ kéo theo một loạt nhu cầu về nước sinh hoạt, nước dùng trong kỹ nghệ v.v… nên tài nguyên nước trở thành một tài nguyên quý giá của nhân loại. 

2. Nước trong văn học Việt

●       Trong văn học dân gian, nhiều tục ngữ liên quan đến nước: nước chảy đá mòn, nói lên sự kiên nhẫn;  nước đổ  lá môn ngụ ý nói không ai nghe;

Sống về gạo, bạo về nước, cho thấy hai nhu cầu thiết yếu của con người để duy trì sự sống. Thuyết  nhân quả của nhà Phật cũng được diễn tả  trong câu: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.

Trong công việc đồng áng thì nước rất cần thiết nên ta thường nghe ca dao:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy rơm đun bếp.

Công việc trồng lúa đòi hỏi phải có nước:

Trời đông, nước đã phơi bờ
Em về nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm

Công cha nghĩa mẹ cũng dùng nước để so sánh:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Lời mẹ ru con cũng có nhiều câu có chữ nước:

Ru con con ngủ cho lành
Để  mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi coi bành vàng

●       Trong văn chương bác học, nói về sắc đẹp của phụ nữ cũng dùng biểu tượng nước như nghiêng nước nghiêng thành hoặc mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Nỗi nhớ nhà, nhớ nước được diễn tả  trong câu :

Buồn trông ngọn nước mới  sa
Mây trôi man mác biết là về đâu (Kiều)

Thề nguyền cũng dùng nước:

Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay (Kiều)

Làm gì cũng phải có kế hoạch, không đợi ‘nước đến chân mới nhảy’:

Lánh xa trước liệu tìm đường
Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê (Kiều)

Nguyễn Khuyến tả cảnh ao làng vào mùa thu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyên câu bé tỉ  teo

Nước trong, không ô nhiễm trong câu thơ của Chinh Phụ ngâm:

Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Nhưng vượt lên ca dao, tục ngữ, nước là một tài nguyên quan trọng vì nước là một chất  không thể thiếu được trong sự sống của loài người, từ động vật đến thực vật; là chất đảm bảo sự cân đối của những vận động tuần hoàn không những của trái đất vĩ mô mà còn cả những chuyển hóa vi mô trong từng tế bào là đơn vị nhỏ nhất của động vật và thực vật.

3. Nước trong đời sống

Nước là chất cơ bản, cái nôi của sự sống. Nước quan trọng trong đời sống thực vật. Tục ngữ ta có câu: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống chứng tỏ tầm quan trọng của nước. Nước hòa tan các dưỡng liệu trong đất thì rễ cây mới hút được để chuyển tải lên các bộ phận hoa lá trong cây. Không có nước thì không có sự quang hợp tạo ra các hydrat cacbon. Để làm ra 1 kg chất khô, cây bắp cần 350 lít nước, khoai tây cần 575 lít, lúa cần trên 2000 lít v.v…

Nước cũng quan trọng trong đời sống động vật. Cũng như trong thực vật, nước giúp cho sự luân lưu, cho sự trao đổi chất: 60 đến 70% trong cơ thể con người là nước nên khát nước dễ chết hơn khát ăn. Nước cũng cần cho các hoạt động kỹ nghệ: sản xuất thép, sản xuất chip điện tử, sản xuất tơ nhân tạo cũng cần nhiều nước và dĩ nhiên sản xuất bia, nước Coca, nước ngọt là từ nước.

Nước cũng ảnh hưởng đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết như mưa, tuyết, bão. Năng lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu như dòng Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng nóng đến Bắc Đại Tây Dương làm khí hậu các xứ Bắc Âu ấm áp hơn.

4. Nước trên quả địa cầu

Trên hành tinh Trái Đất này, mặt trời và nước giúp duy trì cuộc sống. Hơn 70% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước (đại dương, biển kín). Chính vì  vậy mà  trái đất nhiều nước mặn (97%) hơn nước ngọt. Nhưng phần lớn nước ngọt lại nằm ngoài tầm tay của con người vì nằm trong các băng hà ở miền cực địa cầu (2.7%) hoặc dưới tầng đất ngầm và ẩm độ trong đất, còn lại rất ít là nước ngọt chứa trong sông, suối, hồ, ao là thực sự xử dụng được cho con người. Nói khác đi, nước ngọt là một tài nguyên có giới hạn. Ngoài ra, nước lại không được phân bố đồng đều trên Trái đất: vùng Amazonie nhận được 20% lượng mưa trên toàn thế giới chỉ cho 10 triệu người, vùng Bắc Phi và Trung Đông với 400 triệu người lại chỉ hưởng được 1,5%.

Cũng từng đó nước từ hàng ngàn năm trước, nhưng cái khác là ngày nay, dân đông hơn, cần nhiều nước hơn để xử dụng vào nhiều mục đích hơn: nước dùng trong sinh hoạt,  trong kỹ nghệ (thủy điện, kỹ nghệ các loại), trong nông nghiệp để sản xuất lương thực v.v… Theo Hội đồng nước toàn cầu, tiêu thụ nước trong nông nghiệp là 66%, công nghiệp (20%), các hộ gia đình (10%) và khoảng 4% bốc hơi từ các  hồ dự trữ nước nhân tạo. Tế bào sống hầu như 3/4 là nước và không nước, con người sẽ mau chết hơn là không ăn. Như vậy, nước là nguồn tài nguyên vô giá của con người. Những xứ có tài nguyên nước dồi dào phải kể là những xứ như Canada, Nga, Mỹ, Bresil, Indonesia, Đông Dương còn các xứ ít có tài nguyên nước nằm các vùng sa mạc như Úc châu hoặc các xứ Sahel. Một vài vùng trên thế giới thiếu nước vừa phải là các vùng quanh bờ Địa Trung Hải như Ý, Hy Lạp, Bắc Phi, Ai Cập.

5. Chu kỳ nước

Trong bài thơ Thề Non Nước của Tản Đà, có câu: Nước trôi ra biển lại mưa về nguồn. Câu thơ này vô hình chung đã nói về chu kỳ nước trong vũ trụ: nước từ sông, hồ, biển bốc hơi lên cao, gặp lạnh trên cao sẽ ngưng đọng lại và rơi xuống đất. Khi gặp mặt đất thì nước một phần thấm vào lòng đất qua các khe đá, lỗ hổng của đất và tạo thành nước ngầm, một phần chảy tràn để chảy vào sông suối rồi trở lại ra biển.

Như vậy, nước cứ luân hồi mãi mãi, từ kiếp này sang kiếp khác, vô thủy vô chung từ lúc Trái Đất thành hình cách nay hàng ngàn triệu năm và nhờ nước mới có đời sống thực vật, rồi mới có đời sống động vật.

6. Tài nguyên nước

Có thể phân loại tài nguyên nước thành 4 loại sau đây:

6.1. Nước mưa. Có những vùng mưa nhiều, đặc biệt các vùng có khí hậu xích đới. Sau đây liệt kê vài xứ có lượng mưa nhiều nhất thế giới: Colombia (Trung Mỹ), Liberia (Phi châu), Myanmar tức Miến Điện (Á châu), Papua New Guinea, Bangladesh (Á châu) có lượng mưa trung bình hàng năm trên dưới 4000 mm.

Nhưng cũng có những xứ ít mưa như Iran, Afghanistan, các xứ Á Rập ở Trung Đông. Lục địa Úc châu khô hạn chỉ 800 mm mưa mỗi năm.

Vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, vì nằm vùng khí hậu gió mùa nên lượng mưa trung bình hàng năm khá cao: 1800 mm. Tuy nhiên cũng có những vùng khuất gió thì mưa ít hơn như đồng bằng 3 Phan: Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. Ngoài ra, nước mưa không rãi đều trong năm vì chỉ tập trung vào các tháng mưa còn mùa kia thì nhiều nơi không có tí mưa, thêm vào gió Lào khô ráo, khiến nhiều vùng thiếu nước.

6.2. Nước mặt. Đây cũng là tài nguyên nước mặt có trên các sông, suối, hồ ao, kinh rạch… Nước sông suối hồ ao được xử dụng trong nhiều đối tượng khác nhau như phục vụ sinh hoạt (nấu cơm, tắm rửa, giặt), phục vụ nông nghiệp (tưới cây, nuôi cá, chăn nuôi), phục vụ kỹ nghệ (các công nghệ chế biến, sản xuất giấy, thuộc da, phân bón…)

Nước ‘cứng’  (hard water) là nước chứa nhiều ion Calci và magnesi. Khi đun nước loại này thường bị đóng váng vôi, tức là một kết tủa cacbonat calci. Nước ‘mềm’ là nước không có nhiều chất calci và magnesi.

Nước cứng cũng không dùng để pha chế thuốc vì có thể gây kết tủa làm thay đổi thành phần của thuốc. Khi dùng nước cứng nấu thì rau, thịt khó chín; làm mất vị của nước chè. Giặt bằng nước cứng tốn xà phòng do Ca2+ làm kết tủa gốc axit trong xà phòng và làm xà phòng không lên bọt. Nhiều công nghệ hóa học đòi hỏi nước có độ cứng nhỏ do đó nếu nước chứa nhiều calci và magnesi thì phải làm mềm nước cứng bằng cách cho kết tủa các chất Ca và Mg với sođa (Co3Na2) hoặc tách chúng bằng nhựa trao đổi ion (ion exchange resin). Trong nhựa trao đổi ion, những hạt mang điện tích trái dấu sẽ hút nhau như các cation sẽ hút các ion âm tức anion và ngược lại.

6.3. Nước ngầm. Nước từ các nguồn nước mưa, sông, rạch, ao, hồ… một phần thấm vào đất, nhưng không thể ngấm qua tầng đá dưới sâu nên nước tập trung nhiều ở tầng nước dưới đất. Đào giếng chính là để khai thác nước dưới đất dùng trong sinh hoạt. Tại đồng bằng sông Hồng cũng như đồng bằng sông Cửu Long, nhà nào cũng đào giếng để có nước sinh hoạt. Ngoài ra, nông dân cũng đào giếng, khoan giếng sâu để lấy nước ngọt tưới rau màu, pha loãng với nước mặn để nuôi tôm v.v… Chính vì vậy mà hiện nay mực nước ngầm hạ xuống quá sâu kéo theo một số hậu quả: mặt đất sụt lún xuống, nước mặn xâm nhập vào túi nước ngầm, chưa kể nguy cơ nhiễm độc asen (thạch tín), ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe người dân. Ngoài ra, phẩm chất nước ngầm cũng bị ô nhiễm do các chất ô nhiễm trên mặt đất trôi chảy xuống: nitrat, phenol, thuốc trừ sâu, phân hóa học.

6.4. Nước mặn.  Nước mặn ngoài biển có hàm lượng muối trung bình là 35gram cho mỗi kg nước biển và gồm 6 chất: sodium (Na+), chlorua (Cl-), sunfat (SO4 2-), magnesium (Mg 2+), calcium (Ca2+) và potat (K+). pH nước biển biến thiên từ 7.5 đến 8.4: nước biển có môi trường hơi kiềm. Tuy hàm lượng muối trung bình là 3.5% ( 35 gram/lit ), nhưng các biển kín thì nồng độ muối cao hơn:

Biển Đỏ, còn gọi là Hồng Hải thì vì vùng ít mưa, bốc hơi cao, ít sông ngòi chảy vào thì nồng độ muối cao hơn: 40g/l .

Biển Chết ở giữa Jordanie và Do Thái còn có độ mặn rất cao, đến 330g/lít vì là biển kín. Gọi là biển nhưng thực ra đó chỉ là một cái hồ lớn nằm ở vùng sa mạc phía Đông Nam Israel. Gọi là Biển Chết vì nước ở hồ này rất mặn, đến mức không một sinh vật nào có thể sống nổi. Hồ này rộng 1.040 km2, mặt hồ thấp hơn 400 mét so với mặt nước biển nên là điểm thấp nhất của bề mặt trái đất.

Ngoài ra, ở các cửa sông, nơi có sự hoà lẫn giữa nước ngọt và nước mặn, còn gọi là vùng giáp nước thì nồng độ muối giảm nhiều: ta gọi đó là nước lợ. Nước lợ chứa từ 1 đến 10 gram muối trong mỗi lít và các loại muối trong nước lợ có những chất như CaSO4, MgCO3, NaCl tùy các vùng đất nước chảy qua

7. Vai trò của nước. 

Nước có 4 vai trò sau đây:

●       cung cấp: nước cung cấp thực phẩm cho nhân loại. Nước ngọt, nước lợ, nước mặn, đều có thủy sản, hải sản rất phong phú và đa dạng như tôm, cua, cá, ếch, ba ba, rùa. Nước giúp hòa tan các dưỡng liệu trong đất để thực vật lớn nhỏ có thể nhờ đó mà sinh trưởng.

●       điều hòa khí hậu: các dòng hải lưu ngoài biển ảnh hưởng đến điều hòa khí hậu: ví dụ dòng Gulf Stream đem hơi ấm cho các vùng miền Bắc Âu Châu.

●       văn hóa (tâm linh, giải trí…) Cần lưu ý là nước, ngoài khía cạnh giá trị vật chất, phải được xem có giá trị tinh thần vì hồ ao, sông suối có tác động thẩm mỹ, thông thoáng, giúp con người bớt các căng thẳng của cuộc sống xô bồ ngày nay. Thực vậy:

–         tình yêu nẩy nở bên cạnh dòng suối:

Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha (Kiều)

–         cuộc biệt ly cũng bên cạnh dòng sông:

Đưa người ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng? (Thâm Tâm)

Đò chiều sông lạ tiễn đưa nhau
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu? (Vũ Hoàng Chương)

–         nỗi nhớ  khi nhìn con nước thủy triều lên xuống:

Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận)

–         nhớ chồng đi ngoài biên ải :

Nước có chảy mà phiền khôn rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây (Chinh Phụ Ngâm)

–         thư giãn tĩnh mịch nơi chốn non xanh, nước biếc:

Côn Sơn có suối nước trong
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi
(Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca – Bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật)

Sông ngòi luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của Lý Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh đều lấy sông làm nguồn cảm hứng.

Riêng văn học dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hóa bằng ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều loại hò ra đời với nội dung rất phong phú, phản ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v… Cùng với mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm trường. Văn học dân gian được  phong phú thêm với những hò Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v…

Dòng sông ở Huế với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô hậy, đẩy nôốc là những thể hò dân gian trên sông nước.

Tiếng hò của mối tình ngang trái:

Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi!

Câu hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:

Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương

Trong mọi tôn giáo, từ Ấn độ giáo, Phật giáo đến Công giáo, Hồi giáo, đều dùng nước làm biểu tượng. Vì nước là căn nguyên đầu tiên của vũ trụ, nên trong mọi tôn giáo luôn luôn có nước. Ấn độ giáo thì nước sông Hằng ở đó trong nhiều lễ hội hàng chục ngàn người nhảy xuống tắm để gột rửa mọi phiền não; ở Công giáo thì nước dùng trong bí tích rửa tội; ở Hồi giáo thì phải rửa tay, rửa ngón chân trước khi lạy về hướng thánh địa La Mecque; ở Phật giáo thì trong các lễ vật để dâng lên  cúng vái ông bà trên bàn thờ không thể thiếu chén nước. Nước cũng xử dụng trong lễ tắm Phật các ngày Phật đản. Một bộ kinh như kinh Thủy Sám có nói về nước chữa bệnh.

 Nhìn những cảnh sông nước, bát ngát của đất trời, con người chợt nhận ra sự cần thiết của im lặng, của tĩnh tại, nó giúp nhen nhúm ngọn lửa tâm lý và năng lượng này, tức tâm năng giúp chuyển hóa thành năng lượng vật lý; nói khác đi tâm năng và động năng/thể năng có tác động  thuận nghịch cũng như giữa đức tin và lý trí bổ túc cho nhau. Chúng ta cảm thấy sự buông xả cho dòng nước cuốn trôi đi mọi phiền não thật cần thiết.

Nước tượng trưng cho sự vô thường: dòng nước thay đổi liên tục vì giọt nước này tiếp nối giọt nước kia, tạo thành dòng chảy. Tâm của ta cũng vô thường như dòng sông nghĩa là chuyển động tiếp nối, khi vui khi buồn, khi nghĩ đến quá khứ, lúc nghĩ đến tương lai. Sự lưu chuyển của tâm ta như nước chảy không ngừng. Khổng Tử thấy dòng nước lững lờ trôi cùng năm tháng: thị giả như tư phù, bất xả trú dạ (Luận -ngữ, IX, 16 ): cứ chảy hoài như vậy, đêm ngày không bao giờ ngừng.

Nước tượng trưng cho sự vô trụ; nó không vướng mắc mà cứ lững lờ chảy, biết buông xả, không chấp trách.

Nước tượng trưng cho sự vô ngã, vì nó khiêm tốn, nó nhận mọi ô nhiễm.

●       yểm trợ: nước giúp cho các hoạt động yểm trợ du lịch  cũng như  y tế. Nói về vai trò của nước trong các hoạt động du lịch, ta có thể kể du lịch biển, du lịch sông ngòi. Nói về vai trò yểm trợ trong các hoạt động y tế, có thể nói về các suối nước nóng mà xứ nào cũng có. Riêng ở Việt Nam, tại Khánh Hòa có nhiều suối nóng có nhiều chất khoáng, giúp trị bệnh. Ngoài suối nước nóng còn có nước suối lấy ở  các vùng nhiều chất khoáng, cho vào chai để uống như nước khoáng Vĩnh Hảo là nước khoáng duy nhất của Việt Nam có hàm lượng Bicarbonat (HCO3) cao. Ngoài ra, còn có một số nguyên tố vi lượng có ích khác, có tác dụng bồi bổ cơ thể rất tốt, giúp tiêu hóa và lợi tiểu, làm đẹp làn da và hỗ trợ trị bệnh đau dạ dày.

Nước tạo ra năng lượng thủy điện, giúp cho các hoạt động kỹ nghệ (đồ uống, bột giấy, bauxit), chuyển vận (ghe, đò, tàu thuyền). Nước giúp cho sự tạo thành đất. Thực vậy, nước chuyên chở các trầm tích từ nhiều lưu vực để bồi đắp phù sa, nước bào mòn các loại đá làm đá bể rời ra nhanh chóng, giúp cho sự phong hóa hóa học dễ dàng hơn.

8. Ô nhiễm nước

Nhiều nguồn nước bị ô nhiễm do nước thải từ các ngành kỹ nghệ khác nhau cũng như nước thải sinh hoạt không được xử lý đổ thẳng xuống sông nên nhiều loại cá tôm… trên sông ngòi chết dần.

Sau đây là các tiêu chuẩn để đánh giá nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ:

●       BOD5 tức biological oxygen demand, nhu cầu ôxy sinh học- là lượng ôxy được xử dụng cho hoạt động sống của vi sinh vật để phân hủy hết các chất hữu cơ không bền vững trong 1 lít nước (mg O2/ l) trong 5 ngày; người ta lấy thời gian 5 ngày để xác định nhu cầu oxy sinh học và gọi là BOD5 vì thông thường sau thời gian 5 ngày ở 20o thì phần lớn các chất hữu cơ dễ phân hủy sẽ bị phân hủy. Trong nước càng ô nhiễm nhiều (lượng chất hữu cơ nhiều) thì lượng BOD5 càng cao. Thông thường thì nước dùng cho sinh hoạt phải có BOD5 nhỏ hơn 4 mg/ l; nước dùng cho thủy sản thì BOD5 phải nhỏ hơn 10 mg/ l. Nếu BOD5 lớn hơn 10 mg/ l thì xem như nước bị ô nhiễm hữu cơ rõ rệt.

●       COD, tức chemical oxygen demand, -nhu cầu ôxy hoá học-, là lượng oxy cần thiết để phân hủy hết các chất hữu cơ có trong nước theo con đường hóa học. Nồng độ COD cho phép đối với nguồn nước mặt là COD lớn hơn 10 mg/l

Khi BOD và COD cao, điều đó có nghĩa là nồng độ oxy hòa tan trong nước bị giảm, hậu quả là tôm cá trong ao, hồ sẽ chậm phát triển hoặc chết. Ngoài ra, trong các điều kiện kỵ khí, yếm khí, các chất hữu cơ phân hủy sinh ra mùi hôi thối; thực vậy mùi bùn  hôi tanh (hoa sen ‘gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn’) là do sự phân hủy các chất hữu cơ.

●       DO, tức dissolved oxygen, -nồng dộ oxy hoà tan- là lượng oxy tự do ở dạng hoà tan trong nước. DO trong nưóc uống không được nhỏ hơn 6 mg/l. Lượng oxy trong nuớc là yếu tố quan trọng của nước để tự làm sạch nhờ hoạt động các vi sinh vật hiếu khí. Khi BOD và COD quá cao sẽ làm giảm DO và nếu DO giảm sẽ tạo điều kiện  cho các vi sinh vật yếm khí họat động, gây ra nhiều H2S tạo mùi hôi thối cho các vùng bị ô nhiễm.    

9. Nước và phát triển bền vững

Nước đóng góp rất lớn vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, đặc biệt là nước ngọt vì từ nông nghiệp đến kỹ nghệ đều cần loại nước này: tưới cây, chế biến trong kỹ nghệ thực phẩm, sản xuất trong hầm mỏ, kỹ nghệ giấy. Thiếu nước sẽ làm tê liệt các ngành hoạt động trên. Sự gia tăng dân số, sự phát triển kỹ nghệ sẽ ngày càng tác động mạnh đến môi trường nước (dân số tăng lên một lần, nhu cầu nước tăng lên ba lần), do đó tài nguyên nước phải cung ứng nhiều hơn cho dân số tăng không những về lượng mà còn về phẩm. Muốn thế, phải tăng sự tái chế biến nước (water recycling) và tiết kiệm tài nguyên này, nghĩa là không xài phung phí nước. Nước tái chế biến là nước thải trong các ống cống nhưng đã được xử lý vứt bỏ các chất cứng và vài chất dơ để dùng lại trong tưới cây, tưới vườn, tưới sân golf, xe chữa lửa  v.v… Tiết kiệm nước có thể là theo tuần tự: rửa mặt, giặt giũ, rửa chân tay, cuối cùng mới dùng cho nhà vệ sinh. Từ đó lượng nước sử dụng đã giảm một nửa. Tiết kiệm nước tưới trong nông nghiệp như xử dụng nước nhỏ giọt (drip irrigation), tưới đúng chỗ, đúng kỳ, như tráng xi măng trên các mương dẫn nước, như vậy vừa bớt hư hao nước, vừa bớt cỏ dại ven mương.

Một công nghệ tái chế biến nước càng ngày càng ứng dụng (như ở thành phố Luân Đôn và Singapour) là thẩm thấu ngược (reverse osmosis). Thẩm thấu là một hiện tượng tự nhiên: nước bao giờ cũng chuyển dịch từ nơi có nồng độ muối khoáng thấp đến nơi có nồng độ cao hơn và quá trình diễn ra đến khi nồng độ muối khoáng từ 2 nơi này cân bằng. Trong thẩm thấu ngược, người ta phải dùng một áp lực đủ để đẩy ngược nước từ nơi có hàm lượng muối cao ‘thấm’ qua một loại màng đặc biệt để đến nơi có ít muối khoáng hơn.

Ngoài ra, bảo vệ tài nguyên nước cũng bao hàm phải chú trọng các vùng núi non hiểm trở vì chính các vùng này là nguồn phát sinh ra nước của dòng sông: đó là những tháp nước đưa nước về miền hạ lưu. Bảo vệ như không phá rừng đầu nguồn mà trái lại lo làm giàu thêm như tổ chức du lịch sinh thái, bảo tồn đất đai chống xói lở, giúp phát triển kinh tế các bộ tộc sinh sống. Cũng cần lưu ý là xử lý ô nhiễm phải làm trên toàn lưu vực một dòng sông vì nếu chỉ thực hiện chống ô nhiễm nước thải các nhà máy ở hạ nguồn mà trên thượng nguồn, nước ô nhiễm vẫn chảy về thì xem như vô ích.

Để tóm lược, nước là một tài nguyên con người phải trân quý, không để các dòng sông từ từ chết mòn, chết dần với các ô nhiễm vì ô nhiễm nước sẽ gây tác hại đến tuổi thọ loài người. Ngoài an ninh lương thực, ta còn phải chú ý đến an ninh nguồn nước sinh hoạt, vì về lâu về dài, dân số đông, nhu cầu nước nhiều, nếu không kiểm soát được ô nhiễm nước thì sẽ gây gánh nặng y tế như ung thư, dịch tả v.v.


10 . Tuyên ngôn về nước

Như trên đã viết, nước ngọt đóng nhiều vai trò cực kỳ quan trọng trong sinh hoạt, trong an ninh lương thực, trong sản xuất kinh tế. Tuy nhiên nhiều dấu hiệu cho thấy nước ngọt càng ngày càng hiếm có thể vì nhiều nguyên nhân: dân số tăng, thất thoát nước trong đường chuyển vận, ô nhiễm nước, hạn hán và sa mạc hóa, nước mặn xâm nhập, phá rừng, nước ngầm tụt sâu do khai thác nước giếng quá mức. Thực vậy, vài con số cho thấy vài vấn nạn của tài nguyên nước trên thế giới ngày nay:

●       Hơn 1/6 dân số toàn cầu thiếu nước sinh hoạt. Phụ nữ nhất là ở Châu Phi phải đội các bình nước đi bộ hàng cây số lấy nước nên không thể tham gia vào công việc nông nghiệp, kéo thêm nạn nghèo đói.

●       2,5 tỉ người, gồm gần 1 tỉ trẻ em, sống mà không có những điều kiện vệ sinh cơ bản, cứ 20 giây thì có một trẻ chết vì vệ sinh kém, nhất là do  bệnh dịch tả. 

●       Ở các nước đang phát triển, 70% chất thải công nghiệp đổ thẳng vào nguồn nước không qua xử lý.

●       Mỗi ngày, một người cần 2-4 lít nước để uống nhưng cần 2.000-5.000 lít nước để sản xuất ra thực phẩm hằng ngày cho một người.

●       Vào năm 2025, 1,8 tỉ người sẽ sống ở các quốc gia và các khu vực hoàn toàn thiếu nước, 2/3 dân số thế giới sẽ rơi vào tình trạng căng thẳng vì thiếu nước.

●       Tiêu thụ nước không đồng đều tùy theo mức phát triển: 3000 m3/dân/năm ở các xứ Âu Châu; 10 000m3/dân/năm ở Hoa Kỳ; 200m3/dân/năm ở các xứ đang mở mang như Ethiopie, Angola

Riccardo Petrella, một nhà xã hội học người Ý cùng với một số thức giả khác thường được nhiều người gọi là nhóm Lisbonne (Portugal) đã ra một Tuyên Ngôn về Nước (water manifesto) trong đó minh xác nước không phải là món hàng trao đổi được mà là một di sản chung của nhân loại. Tuyên ngôn cho rằng quyền tiếp cận với nước ngọt và sạch là một quyền cơ bản của con người. Không phải người giàu có tiền mà có thể hưởng thụ tài nguyên nước nhiều hơn người nghèo. Nông nghiệp, kỹ nghệ, sinh hoạt hàng ngày đều dựa vào nước. Tuyên ngôn minh xác nước là một chất không thể thay thế được nên mọi người và mỗi người đều có quyền cơ bản có nước uống cả phẩm lẫn lượng cần thiết cho cuộc sống và mọi công dân trên thế giới đều có nghĩa vụ hợp tác trong quản lý tài nguyên nước, tôn trọng quyền các thế hệ tiếp nối giữ gìn di sản chung.


11. Vài đại lượng cần biết trong thủy lợi

Tài nguyên nước bao gồm cả nước mặt do mưa rơi xuống sông, suối, ao hồ và nước ngầm. Nước ngầm cũng phụ thuộc vào lượng nước mưa rơi và tính chất thấm nước của đất đá. 

Thủy lợi là khoa học tổng hợp nhằm đánh giá, khai thác xử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước và bao gồm đánh giá và quy hoạch nguồn nước; khảo sát và thiết kế, xây dựng công trình; quản lý lưu vực; chỉnh trị sông, bờ biển.

Thủy văn (hydrologie) là lĩnh vực nghiên cứu khoa học về nước thông qua quan trắc, phân tích và công thức hóa. Cũng là khoa học ứng dụng nhằm điều khiển và xử dụng nước. Chế độ thủy văn giao động theo mùa về mực nước, về dòng chảy, về thành phần và nồng độ các chất hòa tan, sự thay đổi lòng sông.

Bốc thoát hơi nước là lượng nước bốc hơi từ mặt đất và thoát hơi từ cây. Do giá trị thực tế của lượng hơi nước bốc ra từ đất và từ cây rất khác nhau, tùy theo tính chất đất, hàm lượng nước, thảm cây che phủ đất nên các nhà khoa học đề nghị một lượng bốc thoát hơi nước tiềm tàng (évapotranspiration potentielle) để dễ so sánh. Bốc thoát hơi nước tiềm tàng là lượng nước tối đa thoát ra từ một thảm thực vật thấp và dày đặc đồng đều không bị hạn chế và bốc hơi từ đất lên, khi lượng nước cung cấp hoàn toàn bảo đảm trong những điều kiện khí hậu thổ nhưỡng nhất định.

Lưu vực sông (bassin versant; watershed) là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nước nuôi dưỡng. Có vài sông lưu vực lớn ở Việt Nam như sông Mekong, sông Hồng v.v. Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán… Ví dụ: sông Đà có diện tích lưu vực là 52 900 km2, nhưng sông Đà ở Hòa Bình thì lưu vực là 51 800 km2.

Đoạt giang (river piracy). Đầu nguồn một dòng sông có thể do xói mòn lùi ngược và đoạt  nước thượng nguồn của một dòng sông thuộc lưu vực khác. Một vài sông miền Trung đã do xói mòn vào đường phân nước nên đã ăn vào phần thượng nguồn dòng sông lưu vực bên Lào.

Lưu lượng dòng sông (débit)

Lưu lượng nước là lượng nước chảy qua một mặt cắt ngang của lòng dẫn hoặc ống dẫn trong một đơn vị thời gian một giây. Đơn vị tính thường là m3/sec hay lit/sec.

Lưu lượng biến thiên theo thời gian:

Mùa lũ muộn dần từ Thanh Hóa đến Phan Thiết.

Mùa lũ ở Sông Chu: tháng 6- 10; sông Cả: tháng 8 -11; sông Gianh : tháng 9- 11. 

Từ Thừa Thiên đến Khánh Hòa: từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau. 

Từ Phan Rang đến Hàm Tân (Bình Tuy/Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện tháng 7- 12

Lưu lượng lớn nhất của con lũ phụ thuộc chủ yếu vào cường độ, thời gian mưa và đặc tính lưu vực.

Mùa cạn là lúc lưu lượng dòng chảy thấp, giảm đến đáng kể. Nhiều dòng sông nhỏ có thể lội qua được. Sông Chu có mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5; sông Cả từ tháng 12 đến tháng 7; sông Gianh từ tháng 12 đến tháng 8. Từ Huế vào, mùa cạn từ tháng 2 đến tháng 8.

Nhiều tỉnh miền Bắc Trung Việt như Thanh, Nghệ, Tỉnh, Bình, Trị bị thêm gió Lào nóng thổi từng cơn ác liệt vì hiện tượng foehn, sự bốc thoát hơi của đất và của cây rất mạnh; có khi hạn hán kéo dài không trồng hoa màu được; nhiều hồ thủy điện bị khô nước.

Mật độ lưới sông là tỷ số giữa tổng số độ dài của tất cả sông suối trong hệ thống sông trên diện tích lưu vực. Trong khi miền Châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, kinh rạch sông ngòi chằng chịt, mật độ lưới sông rất dày (2-4 km/km2) thì miền Trung, mật độ lưới sông thấp hơn (1.5-2 km/km2). Riêng các vùng có đá vôi như  Phong Nha, Kẻ Bàng ở Quảng Bình thì mật độ rất thưa (0.3-0.5 km /km2) vì đá vôi dễ thấm nước. Mật độ lưới sông vùng Phan Rang, Phan Thiết cũng thưa thớt vì lưu vực mưa ít và bốc hơi nhiều.

Hệ số dòng chảy là tỉ số giữa lớp dòng chảy (mm) và lớp nước mưa rơi trên lưu vực (mm) tạo nên lượng dòng chảy đó.

Hệ số xử dụng nước là tỉ số giữa lượng nước thực sự xử dụng và lượng nước được cung cấp. Hệ số này phản ánh tình hình mất nước trong quá trình xử dụng. Trong một hệ thống tưới ruộng thì hệ số này cho thấy tình hình mất nước từ nguồn tới ruộng như tổn thất do ngấm, bốc hơi, rò rỉ qua các bờ kênh. Thường hệ số này từ 0.5 đến 0.8. Muốn tránh rò rĩ trên kinh tưới, nhiều nơi dùng giải pháp bê tông hóa hoặc plastic hóa các kinh.

Hệ số thấm là tốc độ thấm nước vào đất

Hệ số tưới là lượng nước tưới cho một đơn vị diện tích cây trồng trong một đơn vị thời gian. Tính bằng l/sec/ha. Ví dụ trên lúa là 1 lit/sec/ha, nhưng trên bắp thì chỉ 0. 7 l/sec/ha

Hệ số nhám. Trong kinh dẫn nước có thể có thực vật phát triển, tăng độ gồ ghề của bề mặt, ảnh hưởng đến dòng chảy.

Mođun dòng chảy là lưu lượng nước sinh ra trung bình trên một đơn vị diện tích lưu vực trong một giâỵ.  Tính ra là lít/sec/km2.

Mođun dòng chảy năm lớn nhất đạt tới 70-80lít/sec/km2 tại lưu vực sông Tả Trạch (sông Hương) và nhỏ nhất chỉ có 5-10 lít/sec/km2 tại lưu vực sông Lũy Phan Thiết. Môđun dòng chảy đỉnh lũ có thể đạt 20-30 m3/sec/km2.

Dòng chảy bùn cát, còn gọi là dòng chảy rắn là lượng bùn cát do dòng nước vận chuyển trong lòng sông qua một mặt cắt nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định như ngày, tháng, năm. Sông Hồng và sông Cửu Long có dòng chảy bùn cát nhiều phù sa lơ lửng rất lớn.

Kênh dẫn nước đưa nước từ công trình đầu mối (đập, hồ, nhánh sông v.v…) về phân phối cho hệ thống kênh điều tiết nước mặt ruộng, còn kênh tiêu (canal de drainage) dẫn nước thừa trên ruộng ra sông hoặc ra khu chứa nước tiêu.

Tưới nước có nhiều phương pháp:

●       Tưới ngập (submersion irrigation) tạo một lớp nước trên ruộng như trồng lúa. Đòi hỏi phải san bằng đất và đắp nhiều bờ để giữ nước.

●       Tưới rãnh (furrow irrigation) hoặc tưới thấm: đưa nước chảy theo rãnh để nước thấm vào đất theo chiều ngang, giữ được đất thông khí và xốp. Ứng dụng cho bắp đậu trồng theo hàng.

●       Tưới nhỏ giọt (drip irrigation): cung cấp nước từng giọt trực tiếp vào gốc cây. Nước tưới được lọc sạch cặn nếu không lỗ bị bít. Lưu lượng tưới rất nhỏ (thường chỉ vài lít trong một giờ) vừa đủ thấm vào đất.

●       Tưới phun (sprinkler irrgation): dùng máy bơm hút nước và phun lên thành hạt nhỏ như mưa. Ưu điểm là không cần đắp bờ, san bằng đất khi tưới nhưng khuyết điểm là tăng bốc hơi, tăng ẩm độ không khí có thể tạo điều kiện cho bệnh thảo mộc và ngoài ra, thiết bị bơm đắt tiền.

12. Các vấn nạn những dòng sông

Dòng sông vốn là một tài nguyên quí giá nhưng gặp các vấn nạn sau đây:

12.1. Lũ lụt. Vì các dòng sông miền Trung không dài, độ dốc núi non rất lớn, đồi núi trọc, không cây che phủ nên nước mưa, vốn tập trung vào vài tháng trong năm, dễ gây ra lụt, nhất là từ Thanh Hóa đến Quảng Nam. Rừng bị phá hại đã làm các quá trình địa mạo tiêu cực như xói mòn, rửa trôi, trượt lở đất xảy ra nhanh chóng.

Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối rừng bảo vệ đất trên các triền lưu vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực có rừng che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng điều tiết to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn đến những kết quả tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hán tiếp diễn, xói mòn triền dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ.

12.2. Hạn hán. Cũng vì phá rừng nên lượng mưa chảy tràn trên mặt (runoff) nhiều hơn lượng nước mưa thấm vào đất. Gặp mùa nắng kéo dài hoặc khi mùa mưa kết thúc sớm,  lưu lượng trên sông giảm dần nên nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt.

12.3. Mặn hóa. Do bùng nổ dân số, sinh đẻ búa xua không kiểm soát, các đồng bằng miền Trung có diện tích đất trồng trọt được càng ngày càng nhỏ nên phải tận dụng thâm canh vào mùa khô, do đó phải bơm nước tưới ruộng, làm nước nhiễm mặn càng xâm nhập sâu. Do bơm nước, mực nước hạ thấp, cường độ thấm nước từ các sông tăng lên, làm nước mặn ngoài biển lấn vào. Vào cuối mùa nắng, khi dòng chảy của sông ngòi nhỏ nhất thì độ mặn lên xa trên mọi dòng sông miền Trung, gây khó khăn cho dân chúng về nước uống cũng như về tưới hoa màu. Cũng có chỗ hệ thống đê ngăn mặn bị vỡ khiến nhiều ruộng bị mặn, không trồng trọt được.

12.4. Sạt lở bờ sông. Sự khai thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như cát, sỏi, vật liệu xây dựng trên các dòng sông để xây cất trong quá trình đô thị hóa cũng như xây kè lấn ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay đổi cấu trúc/kết cấu/địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến tình trạng sạt lở về lâu dài, như tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà Khúc v.v…  khiến nhiều gia đình sống mấp mé bên các triền sông phải di dời hàng năm.

12.5. Bùn cát lơ lửng. Nếu nhiều trong dòng nước thì các hồ chứa bị bồi đầy nhanh chóng. Sự phá rừng trên thượng nguồn làm bào mòn lưu vực và do đó, lượng phù sa lắng đọng sẽ tăng cao lòng sông và làm giảm sự thoát lũ. Sông Hương chảy qua thành phố Huế là một ví dụ điển hình: bùn cát làm dòng sông đục ngầu, không còn xanh trong như xưa.

12.6. Thủy triều và sóng lớn. Các rừng ngập mặn bị phá để làm đìa nuôi tôm, nên các làng duyên hải càng bị gió ngoài khơi thổi mạnh, không có hàng rào thực vật thiên nhiên chống đỡ, nên triều cường và sóng lớn lấn sâu vào đất liền; nhiều đìa nuôi tôm, nhiều ao nuôi cá cuốn trôi ra biển. Triều cường làm nhiều vùng thấp bị ngập hư hại và làm các đê bao, đê ngăn mặn bị phá hủy. Khi thủy triều vào trong sông, độ mặn lan truyền, khuếch tán. Dưới tác dụng của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông, đi về hướng thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc vào cường độ của dòng triều và lượng nước trên thượng lưu đổ về.

12.7. Ô nhiễm nước. Nếu xưa kia, nước quan trọng thì ngày nay, nước lại càng quan  trọng hơn. Lý do chính là do áp lực dân số, tạo nên nhu cầu nước. Kỹ nghệ phát triển, đô thị phát triển, dân số phát triển kéo theo nhiều phế thải và nhiều ô nhiễm; nhưng vì mọi ô nhiễm dù là từ đất (bãi rác rò rĩ, thuốc sát trùng, phân bón), dù là từ không khí (từ các khu kỹ nghệ, từ khói xe) nhưng cuối cùng rồi cũng phải chảy về chỗ thấp, nghĩa là vào nước. Tóm lại, nước không những phải nhiều cho một dân số càng ngày càng tăng (Việt Nam nay đã 80 triệu dân) mà còn phải  sạch để bảo đảm sức khoẻ. Nước mà dơ bẩn thì vô hình gây ra một gánh nặng cho nền y tế. Đặc biệt, trên các dòng sông miền Trung, có nhiều vạn đò sống trên sông và xử dụng trực tiếp nước sông nên dịch bệnh là một ám ảnh thường xuyên. Thực vậy, phần lớn phân người từ các đô thị đi thẳng vào sông ngòi mà không được xử lý. Rác rến đổ thẳng vào sông, nhiều dòng sông trở nên dơ bẩn, hôi hám và lại lấy nước đó để giặt giũ!

13. Quản trị các lưu vực

Mọi vấn nạn trên đều có tương quan với nhau. Mùa mưa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa ruộng vườn vì mưa lũ nhiều do rừng đầu nguồn bị phá; mùa nắng thì do bơm nước nhiều quá sự luân lưu của dòng chảy (nước mặt và nước ngầm) nên nước mặn  xâm nhập sâu vào nội địa. 

Muốn giải quyết các vấn nạn trên, sự quản trị đồng bộ của lưu vực đòi hỏi những biện pháp tổng hợp:

●       trồng rừng ở đầu nguồn để chuyển một phần nước mặt thành nước ngầm nhằm hạn chế nước lũ dồn về hạ lưu quá nhanh, kéo dài thời gian truyền lũ. Rừng cây giúp giảm tốc độ dòng chảy, giảm lượng nước chảy tràn bề mặt và lượng đất bị xói mòn.

 Sự phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên rừng không loại trừ lẫn nhau; đúng hơn, chúng phụ thuộc và hỗ trợ cho nhau. Tài nguyên rừng bảo vệ tài nguyên nước và nhờ tài nguyên nước, mới có những đập thủy điện nhỏ trên các vùng núi non, giúp nông dân thôn bản có thể giải trí nhờ truyền hình, giúp xay lúa, chà gạo, giải phóng phụ nữ khỏi các việc nặng nhọc lam lũ.

●       xây dựng các hồ chứa đầu nguồn để tích nước nhằm giảm mức độ của lũ. Các công trình giữ nước trên núi hay vùng gò đồi giúp điều tiết lượng nước. Có thể nuôi cá trên các hồ được đào theo hệ thống hồ bậc thang có phun nước, nhận nước và xả nước. Trên các suối, xây đập, làm hệ thống nước chảy tự động từ suối vào vườn để tưới cây trồng.

●       xây dựng các đập tức là những công trình chắn ngang dòng chảy, ngăn nước hoặc tạo thành hồ chứa để điều tiết lưu lượng, bớt được lũ lụt ở hạ lưu vào mùa mưa, bổ sung nguồn nước vào mùa nắng để tưới ruộng, cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường đầm phá, tạo đầu nước phát thủy điện.

●       phân một phần lưu lượng lũ của sông chính vào sông nhánh. 

Và lồng ghép vào chương trình trên phải là một chương trình điều hoà dân số, -chú trọng vào chất lượng hơn là số lượng dân-, cũng giúp cải thiện môi trường sống, vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa dân số và môi trường.


14. Kết luận
Xưa kia, không ai đặt nặng vấn nạn nước vì nước trong sạch, dồi dào. Nhưng ngày nay, dân số tăng lên kéo theo một loạt nhu cầu về năng lượng, về thực phẩm, về nhà cửa, về vật tiêu dùng nên nhu cầu về nước, từ nước sinh hoạt, nước nông nghiệp, nước kỹ nghệ càng ngày càng tăng, huống hồ với sự biến đổi khí hậu vì khí nhà kính, sự phá rừng, sự ô nhiễm lại làm nguồn cung cấp nước bị giảm đi, cả lượng lẫn phẩm. Con người phải nhận thức rằng nước là một tài nguyên hữu hạn nên càng phải trân quý, nghĩa là không phá rừng vì rừng làm tăng nguồn nước, không phung phí nước mà gắng tái chế biến.

Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:

một thời để chào đời, một thời để lìa thế;
một thời dể phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhảy;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng
                       (Giảng Viên 3:1-4, 7-8).

Ngày nay, chính là thời để lên tiếng, kêu gọi mọi người phải có tình thương Trái Đất, tình yêu thiên nhiên.Yêu thiên nhiên là không làm tổn hại đến thiên nhiên, núi rừng, cây cỏ. Yêu thiên nhiên là không làm nguồn nước bị ô nhiễm bởi các chất độc hại khiến cho con người cũng như các động vật không bị chết dần chết mòn. Niềm yêu thiên nhiên đưa ta đến khái niệm đạo đức sinh thái, không làm tổn thương đến các hệ sinh thái vốn nuôi nấng loài người từ thuở hàng trăm ngàn năm trước, lúc loài người từ vùng Đông Phi châu bắt đầu tản mác bốn phương. Phong trào ăn chay hiện nay cũng đóng góp rất nhiều cho môi trường thiên nhiên. Thực vậy, ăn chay giúp tiết kiệm rất nhiều đất vì không cần đồng cỏ, không cần có thực phẩm nuôi gia súc, tiết kiệm luôn cả nước tưới. Con người đã hủy hoại môi trường thì chính con người phải đóng góp cải tạo môi trường sống, nghĩa là bớt tiêu thụ, bảo vệ các hệ sinh thái từ rừng đến san hô biển, tạo ra một nếp sống hài hòa, sống an lạc cả Thân lẫn Tâm. Hiện nay, xu thế chung của thời đại là theo chiều hướng đó; nếu ta tiếp tay với các nhà sinh thái học bốn phương để dấy lên một phong trào yêu thiên nhiên, -màu xanh của rừng, của biển, của mây, của nước- thì có lẽ trái đất này mới thoát hiểm nghèo vậy.

 Thái Công Tụng

VGD Magasine Posts – Gs Thái Công Tụng


Feedback

The content on the post “Professor Thái Công Tụng and topics reviewed on VGD Magazine” is informative and engaging. It provides a good overview of Professor Thái Công Tụng and his reviewed works on VGD Magazine.

Feedback on Chapter 1: Ecology

The content delmited in the blog post is well-written and engaging. It provides valuable information about the topic of ecology. However, it could benefit from the following actions:

1. Add more subheadings to break up the text and make it easier to read.

2. Include relevant images or visual aids to enhance the understanding of the content.

3. Provide specific examples or case studies to illustrate the concepts discussed.

4. Consider adding internal and external links to further resources or related articles for readers to explore.

These actions would enhance the overall readability and engagement of the blog post. Keep up the good work!

Feedback on the post Ngo Long Minh La Rung

The content of the post demonstrates a good understanding of the topic and provides valuable information. It would benefit from the following actions:

1. Add more visuals: Including relevant images or videos can make the post more engaging and visually appealing.

2. Break up text: Consider using subheadings or bullet points to improve readability and make it easier for readers to skim the content.

3. Include external sources: Adding links to reputable sources can enhance the credibility of the information provided.

4. Proofread for grammar and punctuation: Double-check the text for any errors and make necessary corrections to ensure a polished final version.

Overall, the content is informative, but implementing these actions can enhance its presentation and impact.

Đa dạng sinh học và con người

Thái Công Tụng

                                                                                      Abstracts

Following introduction in section 1 about the importance of biological diversity in this world, highlighted by the United Nations by declaring 2010 as the International Year of Biodiversity, section 2 discusses biodiversity of species, of ecosystems, of genes. Section 3 deals about biodiversity in tropical forests. Roles of biodiversity are in section 4: ecological, economical, social and spiritual. Biodiversity is of great economic value, since it has the potential to contribute in medicinal products, in essential oils derived from plants, in genetic improvement. It contributes also to sustainable development including watersheds, soil and coastal protection, climate and water regulation, environmental stability and carbon sequestration. Biodiversity conservation is discussed in section 5. Biodiversity and Buddhism are in section 6: various sutras are cited to prone the real compassion with all beings animal or vegetal…The law of causality taught that a behavior has a natural relationship to its resulting consequences in the physical world. In Buddhism, all things are interrelated/interconnected and do not have an autonomous existence, so the health of the whole is inseparably linked with the health of the parts and vice versa. By living simply,  one can be in harmony with other creatures and learn to appreciate the interconnectedness of all that lives .

1.Nhập đề. Đa dạng sinh học càng ngày càng được chú trọng trong lãnh vực môi trường, nhất là từ khi có Đại Hội Toàn cầu về trái đất ở Rio (Ba Tây) năm 1992.  Đại hội này quy tụ các lãnh tụ toàn thế giới về các vấn đề đặt ra trong lãnh vực môi trường trên hành tinh chúng ta đang ở và báo động về các nguy cơ hiểm hoạ đang chờ đón nếu chúng ta lơ là về sự bảo vệ môi trường.Nhiều vấn đề như sưởi ấm toàn cầu, lổ hổng ozôn, sự phá rừng xích đới, sự ô nhiễm không khí, mưa axít, giảm đa dạng sinh học, khu vực đánh cá bị cạn kiệt, mực nước biển dâng cao, v.v. là những vấn đề nhức nhối của nhân loại, nhất là khi áp lực dân số tăng mỗi ngày làm diện tích sống của mỗi người càng bị thu hẹp lại. Riêng năm 2010, Liên hiệp quốc chọn làm Năm quốc tế đa dạng sinh học với mục tiêu tăng cường nhận thức của cộng đồng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, chia sẻ thông tin về những thành tựu trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học do cộng đồng và Chính phủ thực hiện.

2.Thế nào là đa dạng sinh học? Đa dng sinh học là toàn bộ các môi trường tự nhiên và mọi hình thức cuộc sống trong đó có động vật, thực vật, khuẩn, vi khuẩn với mọi tương quan, tương thuộc giữa chúng và các môi trường. Đời sống trên mặt đất có 3 mặt tương thuộc:

đa dạng các loài (kể cả loài người) . Ngày nay, người ta ước tính có đến 10 triệu loài đa tế bào và chỉ chừng 1.8 triệu là được xác định .Ngoài biển thì san hô, cá biển, chim biển, thú biển, bò sát, động vật đáy, động vật phù du, rong biển, cỏ biển ..Trên cạn, thì động vật có vú, loài chim, loài bò sát, thực vật thì ẩn hoa, hiển hoa, rong rêu v.v.Trong đất cũng có nhiều động vật và vi cơ thể nhiều loài.

đa dạng cá nhân (đa dạng gien) trong mỗi loài. Vài ví dụ:

Lúa cũng có nhiều loài :

Vụ chiêm em cấy lúa di,
Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba giăng
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan

Cá cũng có nhiều loài:

Nhà tôi nghề giã nghề nông
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.

Rau cải cũng rất đa dạng như trong bài ca dao sau:

Ai đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ loài hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt cà
Bí đao đậu ván
vốn nhà trồng nên

đa dạng môi trường sống: môi trường sống có  thể  là 

cái ao : Ao thu lặng lẽ  nước trong veo (Nguyễn Khuyến)

một con sông : Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song (Xuân Diệu)

một ngọn đèo : Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ  cây chen lá  lá  chen hoa (Bà Huyện Thanh Quan)

Đó là đa dạng về hệ sinh thái . Nói cách khác, đa dạng sinh học là mức độ phong phú của tạo vật và là kết quả của hơn hàng ngàn triệu năm, từ lúc Trái đất được thành hình đến nay. Trong văn thơ Việt, thực vật và động vật luôn luôn là những đề tài gửi gắm trong ca dao cũng như trong các bài thơ .Trong bài thơ tả cảnh đồng quê Việt :

Gió may nổi bờ tre buồn xao xác

Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây

Hoa mướp rụng từng đoá vàng rải rác

chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay

Ta thấy nào là động vật (chuồn chuồn) với thực vật (mướp, tre, bèo) chan hoà man mác trong bài. Ca dao thường phảng phất nhiều thực vật:

Xăm xăm bước tới vườn trầu

Hỏi thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa ?

Ngó  lên đám bắp trổ  cờ,

Đám dưa trổ nụ, đám trổ bông

Đa dạng sinh học cũng hiện diện trong lời kinh A Di Đà, với vô số loài chim: Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước kia thường có đủ các giống chim, màu sắc lạ đẹp, như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, cùng chim xá-lỵ , ca-lăng-tần-già và chim cộng mệnh. Các giống chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hoà nhã.

Trong bản nhạc Nhớ mùa thu Hà Nội, có những câu:

Hà Nội muà thu cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau

Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu

Hà Nội mùa thu,  mùa thu Hà Nội, mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió,

mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi Màu sương thương nhớ

Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời

Ta cũng thấy ngay thực vật (cây bàng, cây cơm nguội ..), động vật (sâm cầm), cùng đứng chung trong bài hát .

Đa dạng sinh học trong văn học Việt cũng nhan nhãn trong các bài hát như: hoa ngọc lan, hoa tigôn, hoa cúc, hoa mai, hoa đào, hoa quỳnh v.v. Cây cũng vậy có mặt trong ca dao, thơ, nhạc, từ cây cau, cây khế, cây xoài, cây nhãn đến bằng lăng.
Tóm lại, đa dạng sinh học chính là chim trời, cá nước, san hô ngoài biển, cá sông, cá biển cùng động vật hoang dã, thực vật trong rừng, kể cả các khuẩn, tảo, vi cơ thể trong đất, tóm lại mọi hình thức của sự sống muôn màu muôn vẻ .

3.Đa dạng sinh học trong rừng nhiệt đới .

Những loại rừng ôn đới hay rừng thông phương Bắc không có nhiều loài thực vật trong khí đó thì các rừng nhiệt đới có rất nhiều loài, đặc biệt là các vùng sau đây:

-Vùng Amazon. Rừng Amazone, rộng đến 7 triệu km2, xuyên qua nhiều xứ như Bresil, Perou, Venezuela, Guyana, Surinam. Rừng rậm và chứa nhiều loài thực vật, động vật, côn trùng, loài bò sát, chim muông. Trong rừng vùng Amazon có trên 3000 loài cây ăn trái từ chuối, avoca, cam, chanh, bưởi, chưa kể đến cây lúa, khoai tây, bắp, riềng, gừng, khoai môn, mía, cà phê, quế; còn chim muông, loài bò sát, động vật hoang dã thì cũng rất nhiều. Sông Amazon của Brasil có chứa nhiều loại cá hơn tất cả các sông ngòi Âu Châu.  Khu vực này là quê hương của khoảng 2.5 triệu loài côn trùng, hàng chục nghìn loài thực vật, và khoảng 2 000 loài chim cùng thú. Tới nay, ít nhất khoảng 40 000 loài thực vật, 3 000 loài cá, 1294 loài chim, 427 loài thú, 428 loài động vật lưỡng cư, và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học trong khu vực này. Khoảng 20 % loài chim trên thế giới sống trong các khu rừng nhiệt đới Amazon.

-Vùng lưu vực sông Congo. Lưu vực sông Congo bao trùm các xứ như Cameroun, Cộng Hoà Trung Phi, Congo Brazzaville, Congo Kinshasha, Guinée Equatoriale, Gabon cũng chứa nhiều rừng và đa dạng sinh học rất lớn.

-Vùng Nam Phi . Vùng Nam Phi châu với diện tích 1,1 triệu km2 (110 triệu hecta), ứng với Bostwana, Lesotho, Mozambique, Liên Bang Nam Phi, -tương ứng với 1% diện tích  đất lục địa  của quả địa cầu,- cũng có nhiều loài chim, cá, cây, loài bò sát, động vật có vú.

Vùng New Guinea. Vùng Papua New Guinea cũng còn rất nhiều thực vật chưa ai nghiên cứu . Trải dài từ các đảo Indonesia đến hải đảo Thái Bình dương, xuyên qua New Guinea.

Riêng Việt Nam cũng là nơi hội lưu của ba luồng di cư sinh vật từ nhiều khu vực Nam Hoa, Mã Lai, Ấn Độ nên thực vật  cũng kế thừa cả ba luồng :

• luồng thực vật miền núi Tây Bắc châu thổ sông Hồng có nhiều giống cây như thảo mộc miền núi Himalaya hay Nam Hoa, rụng lá vào đông  như các cây thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Nhài (Oleaceae) .

• luồng thực vật mang các yếu tố Mã Lai-Indonesia bao gồm các cây thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) như chò chỉ, dầu song nàng,                    .
• luồng thực vật mang các yếu tố Ấn Độ-Miến Điện gồm những cây thuộc họ Bàng (Combretaceae) như chò xanh, chò nhai (Anogeissus tonkinensis) và một số loài thuộc chi Combretum họ Bằng Lăng (Lythraceae), họ Gạo (Bombacaceae ) rụng lá vào mùa khô.

Riêng về biển cũng có nhiều đa dạng sinh học với tôm, mực, ghẹ, ốc nhảy, trai, nghêu lụa, cá ngựa, hải sâm với nhiều loài san hô thuộc 2 nhóm san hô cứng và san hô mềm; có  loài cá rạn san hô.

4. Ich lợi của đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học có 3 vai trò quan trọng sau đây:

4.1.Vai trò sinh thái. Ða dạng sinh học và biến đổi khí hậu có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau. Với rừng rú được bảo tồn, sức khoẻ con người được tăng lên vì rừng toả ra oxy qua hiện tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe hơi do hàng vạn chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng (green house gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .

Lợi ích gián tiếp của đa dạng sinh học là hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai ở mọi nơi,giúp hạn chế biến đổi khí hậu. Rừng nhiệt đới Amazon là một khu bảo tồn thiên nhiên trên thế giới. Đó là khu dự trữ sinh quyển (cái phổi) cho loài người, nhờ vào sự hấp thụ CO 2 của cây cối rồi thải oxygen ra không gian. Hơn 20% oxygen trên thế giới tiết ra từ rừng nhiệt đới Amazon.

4.2.Vai trò kinh tế như nguồn gen cho nông nghiệp, nguồn thuốc cho y tế, nguồn lương thực. Trước kia, con người sử dụng các sản phẩm hoá học nhiều nhưng ngày nay, mới thấy hoá học đưa đến những phản ứng phụ gây nguy hại cho sức khoẻ nên càng ngày nhân loại chú trọng nhiều về sinh học (Bio). Các nhà nghiên cứu sàng lọc các hợp chất thiên nhiên (các chất có hoạt tính sinh học, tinh dầu, hương liệu) từ tài nguyên sinh vật trên đất liền, dưới biển và vi sinh vật để tổng hợp các chất có giá trị kinh tế, khoa học cao để sử dụng trong các ngành y dược, mỹ phẩm, công nghiệp v.v.

Công nghệ sinh học đang dần dà chiếm nhiều lãnh vực,  từ trang điểm với các công ty mỹ phẩm ngày nay sử dụng các tinh dầu thực vật để làm phấn, son, nước hoa  trong ngành biocosmetics, sinh vật chuyển đôi gen (OMG) với cà chua, đậu nành, bắp với biotechnology đến cải thiện môi trường nước với bioremediation, biofiltration v.v..

-thuốc thang (Đông y và Tây y ) . Xưa kia, ngành Đông Y chỉ dùng toàn thuốc nguồn gốc thực vật . Gừng, tỏi, artichaut, lá dâm bụt, rau thơm v.v. đều sử dụng trị các chứng đau; ngày nay Tây Y cũng sử dụng nghiên cứu thực vật để tìm ra các tinh chất trị bệnh. Rừng cây là một nguồn cung cấp dược liệu quan trọng cho con người; nếu ta hủy hoại rừng, vô hình chung nguồn thuốc chữa bệnh cũng mất luôn. Các chiết xuất từ nhiều cây trong rừng giúp trị nhiều chứng bệnh. Vào trong tiệm thuốc Tây ngày nay, ta thấy cũng có trưng bày các loại thuốc của nhiều hãng như Adrien Gagon, Jamieson ..của Canada, Vogel của Thụy Sĩ để trị cảm, cúm, dị ứng, ho khan v.v. bằng các thực vật khác nhau.

Năm 1983 không một hãng hay cơ quan nào của Hoa Kỳ làm nghiên cứu về thảo dược mà ngày nay có hơn 100 hãng thuốc đã lên dự án thiết lập nhiều chương trình nghiên về thảo dược như Merck, Abbott, Bristol-Myers Squibb, Eli Lilly, Monsanto và Cơ Quan chống Ung Thư Hoa Kỳ (US National Cancer Institute). Cơ quan này cho biết có hơn 3 000 loại cây dùng để chữa trị ung thư trong đó 70% là dược thảo từ rừng nhiệt đới. Chưa kể đến còn nhiều chất hóa học trong dược thảo chưa khám phá bởi con người để chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo như lao phổi (tuberculosis), viêm gan, HIV, AIDS, v.v….mà có thể những hóa chất dược thảo này sẽ tìm được trong rừng Amazon chăng

Rừng nhiệt đới là nhà thuốc cho thế giới . Nhờ đa dạng sinh học, nhất là thảo mộc hoang dã trên núi, nên nhiều dược phẩm mới có khả năng được phát hiện qua các khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên trong rừng.. Nếu ta hủy hoại rừng, vô hình chung tài sản gien của nhân loại bị phá vỡ luôn. Trong rừng nhiệt đới có vô vàn cây cho thuốc, từ lá, rễ, trị nhiều chứng bệnh thuốc lợi tiểu, chống đau nhức, trị kiết, thổ tả, mụt nhọt. Ở Bắc Mỹ 25% toa thuốc chế biến từ dược thảo. Vào những năm 2000 thuốc tiêu thụ từ dược thảo lên đến 4.5 tỉ đô la. Ngày nay trên toàn thế giới lưu lượng dược thảo được bán ra hơn 40 tỉ đô la hàng năm chiết ra từ 90 loại cây rừng nhiệt đới. 25% các loại thuốc chống ung thư ngày nay trích ra từ dược thảo vùng nhiệt đới.

nguồn gien cho cải tạo thực vậtĐa dạng sinh học càng nhiều thì qũy gien càng phong phú và càng phong phú thì cơ hội lai tạo các giống mới kháng hạn, kháng lạnh, kháng phèn, kháng mặn.. .càng dễ thành công . Đó là lý do Liên Hiệp Quốc có Công Ước quốc tế về đa dạng sinh học. Nhiều giống cây, nhiều giống hoa màu hoang dã  nhưng lại chứa đựng một quỹ gen rất phong phú . Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp cải thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một quỹ gen phong phú..

lương thực:  Rừng cây cũng có tài nguyên lưong thực với măng tre, nấm, sim, muồng v.v.

Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan 
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng 
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng

4.3.Vai trò xã hội và tâm linh. Đa dạng sinh học có giá trị thẩm mỹ, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục nâng cao tầm hiểu biết của con người. Đa dạng sinh học với thảo nguyên, rừng dày, rừng thưa, rừng ven sông, suối, ao hồ, biển giúp ngành du lịch nghỉ ngơi chưa kể đó cũng là chốn tâm linh giúp lắng đọng, nội tâm yên ổn, giúp giảm stress vốn gây rất nhiều bệnh thời đại  ..

Rừng giúp con người thư giãn, tìm lại sự im lặng, tĩnh mịch:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
 Người khôn người đến chốn lao xao .

Đa  dạng sinh học với rừng cây,  ao hồ, sông suối, thác nước giúp con người ngày nay tránh cảnh ồn ào , chen lấn giúp họ có những quãng ngày thanh thản, tác động đến nội tâm. Thực thế, có ở trong cảnh phố phường chật hẹp người đông đúc với tiếng động nhức tai điếc óc  thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh êm đềm lắng đọng trong khu rừng, mới  chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong tình trạng thần trí lắng đọng.  Con người tìm lại chốn tĩnh lặng, giúp tâm không còn vọng niệm, giúp tâm buông xả, không phân biệt những cặp đối đãi như giàu/nghèo, sang/hèn, tốt/xấu v.v. Tâm  an vui tự tại, không dính mắc, tâm không vọng niệm, tâm buông xả  như bài thơ sau đây:

“Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống là động, nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương, nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống yên vui, danh lợi mãi coi thường
Tâm bất biến, giữa dòng đời vạn biến.”

Trong mọi xứ, tín ngưỡng dân gian xem cây chứa đựng những linh hồn, những bà tiên, những bà phù thủy có phép màu nhiệm. Các thần thoại, các huyền thoại, các phônklo đều hàm ẩn những điều ấy. Người Việt thuở xưa vì không chế ngự được thiên nhiên: gió, mưa, lụt lội, sấm sét, thú dữ nên tôn thờ mọi thần linh: thần lửa, thần mưa, thần gió, thần cây, thần đá và mọi vật linh như chim (trĩ, công..). Thần linh có mặt trong rừng, trên cây, khúc sông, thác nước…cho nên thường có những lễ hội cầu trời, cầu thần linh phù trợ cho con người. Ở nông thôn Việt Nam, ngưòi dân quê xem cây cổ thụ như chứa một cái gì linh thiêng, có thần cây tàng ẩn trong đó nên thường đem lễ vật, que hương ra cúng bái. Cây thông tượng trưng cho người quân tử:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…

5.Bảo tồn đa dạng sinh học. Muốn bảo tồn đa dạng sinh học, các nước thường thiết lập vườn quốc gia (national park) khu bảo tồn thiên nhiên (nature reserve), khu lâm sản nghiên cứu thí nghiệm, các vườn sưu tập cây để cho hột (arboretum). Nhiều Trung Tâm Khảo Cứu trên thế giới đã phải sưu tập rất nhiều hạt giống cuả mọi giống lúa, mọi giống đậu, khoai tây, bắp…và tồn trữ trong các kho lạnh để cho khỏi mất tỷ lệ nẩy mầm trong hàng chục năm.Thực vậy, hiện nay trên thế giới có quãng trên 10 Trung Tâm quốc tế, rải rác trên toàn thế giới, chuyên có một bộ phận lo sưu tập và bảo tồn quỹ gien các loài. Nào là CIMMYT ở Mexico ,đặc trách lúa mì và bắp, y như tên gọi Centro Internacional Mejoramiento Maiz y Trigo, nào là CIAT (Centro Internacional Agricultura Tropicale) ở Colombia  lo sưu tập các loại đậu, nào là ICRISAT ở Ấn Độ (International Crops Research Institute SemiArid Tropics) sưu tập đậu phụng và đậu triều tức Cajanus indicus, nào là IRRI ở Phi luật tân (International Rice Research Institute) chuyên về lúa, từ lúa ruộng đến lúa rẩy, từ lúa tẻ đến lúa nếp, lúa nổi  đến lúa chịu phèn, kháng mặn, nào là CIP (Centro Internacional de la Papa) ở Pérou lo về khoai tâỵ  Từ 1968, Viện IRRI đã du nhập và tồn trữ trong kho lạnh gần 70.000 giống lúa (trong đó 63000 ở Á Châu). Muốn cho an toàn hơn, cứ mỗi giống lúa, họ gửi một nửa sang Mỹ, hiện tồn trữ trong kho lạnh ở Colorado (U .S. National Seed Storage Laboratory ở Fort Collins).

Hầm ngầm chứa hạt giống của nhân loại được duy trì ở nhiệt độ −18°С, nằm dưới độ sâu 120m, tại một vùng núi xa xôi trên một hòn đảo ở Spitsbergen, Na Uy.

 Nền tảng cuả cuộc cách mạng xanh hiện nay là nhờ vào quỹ gien trên. Các nhà bác học đã xử dụng quỹ gien để tạo giống mới kháng hạn hơn, cao năng hơn, kháng sâu bệnh hơn. Căn bản di truyền trong sự cải thiện thực vật là nằm trong các gen mà một khi các gien bị mất đi (do phá rừng, do đô thị hoá) thì các nhà di truyền học không tìm đâu ra các gien để còn tiếp tục lai giống.

Tóm lại, bảo vệ đa dạng sinh học chính là bảo vệ con người. Vì sao ? Con ngưòi nhờ rừng vì không rừng thì không có nước. Không rừng thì đất cằn cỗi mà đất cằn thì không sản xuất được lương thực, gây nạn đói kém. Không rừng thì lụt lội, chết người, mất của.. Con người nhờ gen đa loại để cải thiện giống, giúp an ninh lương thực trong bối cảnh người càng ngày càng đông.

6.Phật giáo và đa dạng sinh học. Trong ngũ giới của Phật giáo, điều khoản thứ nhất là cấm sát sanh, nghĩa là cấm gây nên cái chết cho bản thân và tha nhân. Nền đạo đức của Phật giáo là lòng thương yêu thực sự đối với mọi sinh linh. Như vậy cũng có nghĩa là không săn bắn hoang thú.. Như vậy, ta phải bảo tồn rừng rú vì nếu không có rừng thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ ta cũng có nói đến hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá .

Trong kinh Địa Tạng, phẩm thứ tư, Nghiệp cảm của chúng sanh, có đoạn Đức Phật khuyên như sau: Này bốn ông Thiên Vương ! Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu.Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn  thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng. Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ  thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sanh vật thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.

Trong kinh Pháp Cú là kinh nhật tụng của Phật giáo Tiểu thừa, phẩm Phật đà, ta bắt gặp các câu:

Trong cơn nguy khốn bàng hoàng, Con người tìm trú dưới hàng cây thiêng

Hoặc vào đền miếu, chùa chiền, Hoặc lên đồi núi, hoặc miền rừng hoang

Như vậy cũng đủ nói lên vai trò của rừng trong tâm linh. Đức Phật Thích ca có những lời nhắn nhủ ghi lại trong kinh Pháp Cú, phẩm A La Hán:

Khả ái thay núi rừng

Chỗ người phàm không ưa

Người li tham ưa thích

Vì không tìm dục lạc

Trong cuộc sống đầy biến động, ta hãy tạo cho mình một niềm tin và một tâm bình an, buông xả .

Theo thuyết tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi thì mọi việc đều liên quan đến nhau: rừng cây tác động đến nước, nước tác động lên mực nước biển dâng, ảnh hưởng đến các vùng đất thấp duyên hải, ảnh hưởng đến lương thực v.v.nói cách khác, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không.. Thân thể bao gồm bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực con người chỉ vay mượn các yếu tố trên để sống còn, còn mượn thì còn trả; hết mượn, thì chết .

Cũng như thế, Trái Đất cũng gồm  Tứ Đại là đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này cũng tương quan, tương thuộc:  vấn đề rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, dân số đông, khí nhà kiếng, an ninh lương thực v.v. đều là một vì cái này ảnh hưởng đến cái kia .Do đó, nếu nước bị ô nhiễm, nếu không khí bị ô nhiễm, nếu phá rừng ngập mặn, phá rừng đầu nguồn v.v, thì con người đã tự huỷ hoại mình!  Nói khác đi, hiểu rõ thiên nhiên ta sẽ hiểu rõ giáo pháp và hiểu rõ giáo pháp ta sẽ hiểu rõ thiên nhiên. Như vậy, phải vứt bỏ khái niệm về ‘ngã’ vì con người nhờ không khí để thở, nhờ nước để uống, nhờ rừng mới có dòng nước.

Con người mà còn tự ngã là còn đau khổ .Căn bản của những lời dạy của Đức Phật là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Không còn dính mắc vào tự ngã, vào hạnh phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xả bỏ một cách tự nhiên, không cần tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xả bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó — không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự. Đúng như trong câu thơ của Cung Oán ngâm khúc: Cái thân ngoại vật là tiên trên đời”.

7.Kết luận. Như vậy, đa dạng sinh học với sinh vật -động vật và thực vật- từ trên cạn đến dưới nước đều có vai trò to lớn và đạo Phật qua điều răn trong ngũ giới đã khuyến cáo sự đa dạng sinh học. Trong khi đó thì nạn phá rừng vẫn hoành hoành, phá hủy tài nguyên sinh học và   sự ác dưới nhiều hình thức khác nhau vẫn đang góp phần phi nhân hóa con người bằng cách làm giảm thiểu cảm thức về nhân tính nơi những cá nhân và trong các cộng đồng. Tình trạng bi đát này mời gọi mọi người trên hành tinh Trái Đất này chung sức để vạch trần những mối đe dọa chống lại sự sống con người và để thức tỉnh lương tâm đạo đức của mọi công dân các tín đồ, tạo nên sự phục hưng tinh thần và đạo đức của các cá nhân lẫn xã hội để họ có thể là những nghệ nhân thực sự xây dựng hòa bình, yêu thương, bảo vệ và phát triển sự sống con người trong mọi chiều kích. Chợt nhớ về bài thơ dài của  tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết:

Ta được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được –
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.”

 Thái Công Tụng

 (Tham-luận Tổ-đình Từ-Quang  July 2013 )

Cơm nguội vàng hay còn gọi là cây sếu, phác, cơm nguội Trung Quốc (tên khoa học: Celtis sinensis Pers.,  là một loài thực vật thuộc chi Cơm nguội, họ Gai dầu (Cannabaceae).

Bàng: Terminalia catappa là một loài cây thân gỗ lớn sinh sống ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae).

Cây hoa sữa (cây sữa) còn có tên mùa cua, mò cua, mồng cua. Tên khoa học là Alstonia Scholaris (L).

Sâm cầm (Fulica atra) là một loài chim thuộc họ Gà nước (Rallidae) .

Cao nguyên phố núi cao phố núi mù sương

Thái Công Tụng

October 14, 2020

Facebook Twitter Linkedin

Abstracts

This paper which aims at providing an assessment of the Central Highlands of Viet Nam is structured into 10 sections.

Following the introduction on geographical setting in section 1, section 2 describes the main  ecosystems which are natural units, relatively uniform in terms of geomorphology, climate and soils. Section 3 deals with the climatic conditions of the region.  In section 4, water resources with main river systems are appraised. In section 5, soils resources, with emphasis on soil taxonomy and soil genesis  are discussed. In section 6, ethnic minorities of the Central Highlands are presented. Agricultural systems  with main crops like coffee, tea, mulberry, rubber, pepper are assessed in section 7. Demography trends are presented in section 8. Section 9 provides many development issues such as food security, soil erosion and soil fertility, energy, infrastructure development, education problems of ethnic minorities, biodiversity conservation, reforestation, land tenure, agricultural credit, off-farm income. Finally, the concluding remarks are presented in section 10.

1. Tổng quan

Ngoài  các đồng bằng và các châu thổ (sông Hồng, sông Cửu Long) không cao hơn mực nước biển bao nhiêu, Việt Nam còn có những cao nguyên nằm phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những cao nguyên như vậy, thường được gọi là Cao Nguyên Trung Phần, còn gọi là Tây Nguyên (dưới đây sẽ viết tắt là TN) có rất nhiều đặc trưng nếu so sánh với các đồng bằng miền Trung, về nhiều mặt, từ khí hậu, đất đai, chủng tộc, đến sử dụng đất đai.

Trước hết, TN gồm các tỉnh sau: Kontum, Giarai (Pleiku), Dak Lac, Dak Nong và Lâm Đồng mà sau đây ta hãy tìm hiểu thêm về diện tích và dân số:

TỉnhDiện tích (km2)Dân số (1996)
Kontum11 560260 000
Gia Lai (Pleiku)16 060824 000
DakLac (BanMeThuot)13 0621 667 000
Dak Nong6 514363 000
Lâm Đồng (Dalat)9  953722 322

Tỉnh Dak Lac sau 1975, gồm cả hai tỉnh Dak Lac (thị xã Ban Me Thuot) và Quảng Đức (thị xã Gia Nghĩa) họp lại, nhưng năm 2003 lại tách ra làm 2 như trước 1975. Tỉnh Quảng Đức đổi tên là Dak Nong.

Tỉnh Gia Lai sau 1975, gồm cả ba tỉnh Kontum, Pleiku và Phú Bổn (thị xã Hậu Bổn tức Cheo Reo cũ) họp lại.

Tỉnh Lâm Đồng, sau 1975, gồm hai tỉnh Tuyên Đức (thị xã Dalat) và Lâm Đồng cũ (thị xã Bảo Lộc hoặc Blao). Tuy nhiên, cũng có thể trong tương lai, các tỉnh này lại được phân chia như trước 1975. Bằng chứng là sau 1975, nhiều tỉnh được gọp lại: Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Bắc Thái nhưng nay trở lại như trước năm 1975: Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên (thay vì Bình Trị Thiên), Quảng Ngãi, Bình Định (thay vì Nghĩa Bình), Phú Yên và Khánh Hoà (thay vì Phú Khánh), v.v…

Diện tích của các tỉnh trên là 57 149 km2, tức 5.714.900 ha. Nhưng nếu kể cả các miền cao của các tỉnh  miền Trung từ Quảng Trị vào đến Bình Thuận thì diện tích Tây Nguyên cao hơn nhiều. Vì TN có cao độ biến thiên từ 400 mét như ở Ban Mê Thuột đến 1500 mét như ở Dalat nên khí hậu cũng có nhiều biến thiên và đất đai cũng vậy.

TN, ngoài các cao nguyên, còn có những thung lũng rộng hẹp khác nhau. Những thung lũng lớn, bao quanh bởi các rặng núi cao thì phải kể thung lũng Sông Ba ở Cheo Reo (Phú Bổn củ), thung lũng Lạc Thiện ở Đông Nam thị xã Ban Me Thuot, thung lũng sông Sesan và các phụ lưu của sông này như Dak Poko và Dak Bla ở Kontum.

2. Các hệ sinh thái chính

Tây Nguyên bao gồm cả các vùng đất cao tạo ra những cao nguyên/ bình nguyên lẫn vùng đất thấp của những đồng bằng hay thung lũng.

2.1. Vùng đất cao

Trong vùng đất cao, có thể phân biệt những sinh hệ sau:

2.1.1. Giãy núi Trường Sơn

Từ miền núi cao phía bắc Kontum, phía sau đồng bằng Quảng Nam, giải Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, ngăn cách vùng TN với đồng bằng duyên hải Trung Việt. Giải núi này rất dốc về phía Đông vì gần biển còn phía Tây nó thoai thoải để tạo thành nhiều cao nguyên như cao nguyên Pleiku, cao nguyên Dak Lac, cao nguyên LangBian, cao nguyên Blao-Di Linh.. Có nhiều chỗ giãy núi này đâm ra tận biển, tạo ra những mũi như mũi Varella, mũi N.

Giải núi này rất đa dạng về nhiều mặt:

  • địa chất, vì có nhiều loại đá rất cổ, trước cả đại địa chất thứ nhất, tạo thành nền đá gốc mà các nhà địa chất học thường gọi là ‘khối Kontum’;
  • thảo mộc vì có nhiều loại thực vật cảnh: rừng dày, rừng thưa, thảo nguyên v.v.
  • khí hậu:  giải núi này là bức tường phân biệt khí hậu giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn : phía đông, tại các đồng bằng duyên hải, mùa mưa trễ hơn, từ tháng 10-11 trong khi phía tây, nghĩa là phía cao nguyên, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5. Nói khác đi, bên này là mùa nắng thì bên kia là mùa mưa.

2.1.2. Vùng núi Ngọc Lĩnh ở  thượng Kontum

Giữa bắc Kontum và các đồng bằng Nam-Ngãi, là giãy núi Ngọc Linh, với đỉnh cao nhất 2 598m, cấu tạo bởi đá granit cùng các đá gơnai, đá phiến mica, riolit. Thấp hơn đỉnh Ngoc Linh là các đỉnh khác như Ngoc Pan 2 251m, Ngoc Niay cao 2 259m, nằm giáp ranh hai huyện Dak Gley và Dak To, Ngoc Krinh 2 025m nằm phía TB huyện Kon Plong, tỉnh Kontum; từ đỉnh giải Ngoc Lĩnh, có thể nhìn thấy tứ phía: đồng  bằng Quảng Ngãi-Quảng Nam phía đông, xứ Lào phía tây. Sườn núi dốc và sông suối có thung lũng hẹp, dòng nước chảy mạnh và cũng từ sườn Đông rặng núi này phát xuất nhiều dòng sông chảy xuống các đồng bằng Nam, Ngãi. Rừng núi ở đây có nhiều loại gỗ quý và nhiều thú hiếm.

2.1.3. Cao nguyên Kon Plong

Cao nguyên này có cao độ 1 100-1 300 mét có bề mặt bị chia cắt mạnh tạo nên những quả đồi, và nằm phía đông Kontum, giữa Kontum với Quảng Ngãi.

2.1.4. Cao nguyên Kontum

Cao nguyên Kontum (550m) kéo dài từ vùng Tân Cảnh, Diên Bình, Võ Định đến thị xã Kontum. Kontum theo tiếng dân tộc bản địa Ba Na có nghĩa là làng hồ, do xưa kia có rất nhiều hồ nước (kon= làng; tum=hồ, ao) xung quanh… Có sông Poko giới hạn phía Tây chảy từ thượng lưu quận DakTo chảy xuống.

Các địa danh như Tân Cảnh, Kontum là nơi xảy ra nhiều trận kịch chiến giữa quân đội Việt Nam Cọng Hoà với quân Bắc Việt vào tết Mậu Thân (1968) và nhất là mùa hè đỏ lửa (1972). Một trong những căn cứ đó có tên đồi Charlie nằm phía Bắc thị xã Kontum đã được bất hủ hoá qua bài hát Người ở lại Charlie:

 Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí
Vâng, chính Anh là ngôi sao mới, một lần này chợt  sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng

2.1.5. Vùng đồi Sa Thầy

Vùng đồi Sa Thầy với đất feralit đỏ vàng trên mácma axit (granit, rhyolite) ở phía T ây sông Poko, có nhiều đập thuỷ điện (Sesan, Ya Ly) trên con sông Sesan. Tại đây có khu bảo tồn thiên nhiên Chư Môm Rây là một vùng rừng nguyên sinh giáp biên giới Lào;  ở đây có thể có sự tồn tại của bò xám, một loài động vật hoang dã qúy hiếm có tên trong Sách Đỏ thế giới.

2.1.6. Cao nguyên Pleiku

Nhắc đến Pleiku, ta liên tưởng đến bài hát quen thuộc trong đó có các câu :

Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mù sương..,

Cao nguyên Pleiku, với diện tích 4 500 km2, có cao độ trung bình 800 mét, trước kia là một vùng thấp nhưng có dung nham núi lửa phun trào lên và lấp lên khá dày, lâu ngày hoá thành đất đỏ; hiện nay vẫn còn một đỉnh núi lửa đã tắt,  ngọn Chi Hdrung có cao độ 1 025 mét và quanh ngọn núi lửa còn có những hồ miệng núi lửa như hồ Do Nau Eng Prong.

Dạng vòm cao nguyên Pleiku tạo ra đường chia nước của hai lưu vực: phía Đông là sông Ba chảy xuống Tuy Hoà và phía tây là lưu vực sông Mekong.

Phía Đông cao nguyên Pleiku là những rặng núi granit và rhyolit kéo dài của thượng Kontum; quốc lộ 19 từ Qui Nhơn lên Pleiku phải xuyên qua đèo Mang Giang (740m).

Phía Tây  cao nguyên Pleiku có cao độ thấp hơn; đặc biệt tại đây có địa danh PleiMe với thung lũng Ia Drang là nơi đã từng xẩy ra những trận kịch chiến với quân đội Bắc Việt năm 1966.

Giữa cao nguyên Pleiku và Dak Lac, có giãy núi granit Chư Pha (732m), đầu nguồn Ea Heo.

2.1.7. Cao nguyên Dak Lac

Cao nguyên này có cao độ trung bình 400-500 mét, và khá bằng phẳng xung quanh thành phố Ban Me Thuot. Phía đông-nam Ban Me Thuot là các dòng sông Krong Anna, Krong Kno và có những cánh đồng phù sa rộng lớn như quanh hồ Lạc Thiện.

Đây là nơi người dân tộc Rhade sinh sống; tộc người Rhade có trình độ văn hoá khá cao, so với các tộc người khác; họ biết trồng lúa nước. Ban Don phía tây Dak Lac là một địa danh chuyên nghề săn bắt và thuần dưỡng voi.

2.1.8. Cao nguyên M ‘Drak (Khánh Dương)

Cao nguyên này có cao độ quãng 500 mét, nằm giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, có dạng lượn sóng nghiêng về phía Tây. Thấp dần về phía đông nam đến hồ Lạc Thiện (Lac), nằm ở một nơi trũng ăn thông với sông Krong Ana, thấp dần về phía Tây xuống thung lũng sông Srepok.

2.1.9. Cao nguyên Dak Nong (Gia Nghĩa trước 1975)

Cao nguyên Dak Nong, với diện tích  3 800 km2, nằm phía tây cao nguyên Di Linh và phía nam cao nguyên Dak Lac. Có thị xã chính là Gia Nghĩa, trước 1975, thuộc tỉnh Quảng Đức. Vào thời đại xa xăm của địa chất, cao nguyên Di Linh và Dak Nong là một khối thống nhất nhưng bị các hoạt động đào xẻ bởi sông Da Dung và các phụ lưu nên không còn giữ mặt bằng ban đầu nữa mà chia ra các mảng nhỏ lớn khác nhau.

2.1.10. Cao nguyên Blao-DiLinh

Cao độ 800m, nhiều đất đỏ trên cao, cùng với các thung lũng rộng, cao nguyên này có địa hình bằng phẳng hơn và kéo dài lên đến Đức Trọng Liên Khàng, có sông Da Dung tức thượng lưu sông Đồng Nai, cũng có hướng nghiêng từ đông sang tây với độ chênh cao chừng 200 mét.

2.1.11. Cao nguyên Dalat

Dalat là do 2 chữ Đà (sông, suối) và Lạt (một tộc người tên Lạt).Với độ cao 1500 mét, bao quanh là những giãy núi xấp xỉ 2 000 mét. Bề mặt cao nguyên bị chia cắt mạnh, tạo ra những dãy đồi dài với sườn khá dốc; đây là một thành phố hoa, rau, quả á nhiệt đới (mận). Phần lớn là đá phiến sét, đá granit  chứ ít có đá bazan. Phía  Bắc và phía Đông có hai ngọn núi là Langbian (2153m) và Biđúp (2286m). Rừng cây gồm nhiều loài thông 2 lá, thông 3 lá.

Tây Nguyên không phải chỉ gồm các cao nguyên mà thôi mà còn cả các đồng bằng, thung lũng, trũng, bàu.

3. Khí hậu

Mùa mưa TN diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 với cao điểm là tháng 7. Mùa nắng kéo dài 4 tháng, từ tháng 12 đến tháng 3, với hai tháng khô (1,2). Đó là nói trên tổng quát chứ mỗi vùng thiên nhiên nói trên cũng có những chi tiết khí hậu khác nhau:

.cao nguyên Ban Mê Thuột có vũ lượng chừng 1 900 mm /năm  và nóng hơn Pleiku vì cao độ thấp hơn. Tháng nóng nhất trên 25 0 (tháng 4: 250 8), tháng lạnh nhất 20 0.

– Cao nguyên Pleiku, lạnh hơn và mưa nhiều hơn vùng Ban Me Thuot (vũ lượng 2 450mm),  nhưng mùa nắng lại gắt hơn  so với Ban Me Thuot.

– Cao nguyên M’Drak (Khánh Dương), giữa Ban Me Thuot và Ninh Hoà, mưa nhiều hơn Ban Me Thuot (2 800mm) nhưng mưa khởi sự trễ hơn Ban Me Thuot.

– Cao nguyên Bảo Lộc-Di Linh mưa đến 2 500mm, tập trung 85% lượng mưa vào mùa mưa nên thích hợp với các cây trồng lấy lá như cây trà.

– Cao nguyên Dalat, với cao độ trung bình 1 500 mét nên khí hậu mát với nhiệt độ trung bình không dưới 160 C nhưng cũng không vượt quá 200 C. Lượng mưa trung bình 1 500mm. Đặc biệt là về đêm, khi mặt trời vừa ngủ, sương mù dâng lên từ  nhiều thung lũng  dần dà tan loãng trên bầu trời đêm gây ra một ánh trăng huyền ảo, trăng mờ đỉnh núi như bài thơ của Hàn Mạc Tử :

Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới nước đáy hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu

– Thung lũng Cheo Reo, cao độ 160 mét thì vừa rất nóng và rất khô vì mưa ít hơn so với các  cao nguyên nói

trên. Thực vậy, thung lũng này  ở giữa hai dãy núi cùng hướng tây bắc-đông nam, nên bị khuất gió mùa tây nam lẫn gió mùa đông bắc, do đó rất khô khan. Lượng mưa trung bình chỉ 1 300 mm.

Lòng sông Ba mùa nắng

 tại vùng biên giới Lào-Việt ở bắc Kontum là vùng đất ‘bên nắng đốt, bên mưa quay’ vì trong khi sườn núi phía đông giãy Trường Sơn (phía Việt Nam) có mưa nhiều thì giãy phía Tây Trường Sơn (phía Lào) lại là mùa nắng.

Tóm lại, nhiều vùng TN có mùa nắng quá dài và thung lũng lại quá sâu so với các vùng đất cao nên thiếu nước để trồng trọt là một cưỡng chế cho sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cao nguyên Trung phần có một ưu điểm khác với miền duyên hải Trung Việt là  không có bão lụt, không có gió Lào khô cháy.

4. Sông ngòi

Để dễ hiểu, có thể chia hệ thống sông ngòi TN ra làm 2: hệ thống chảy ra Biển Đông và một hệ thống khác chảy về phía sông Mekong:

4.1. Hệ thống chảy về Biển Đông

– Sông Ba. Bắt nguồn từ độ cao 1.549m, trên dãy Ngọc Linh, thuộc tỉnh Kon Tum, sông Ba chảy theo sườn phía Đông của dãy Trường Sơn, qua các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Phú Yên trước khi đổ ra Biển Đông. Có vô vô số huyền thoại trên con sông này, mà đoạn sông Ba chảy qua huyện K’rông Pa của tỉnh Gia Lai còn được người J’rai coi là con sông Thần, có thể rửa sạch muộn phiền, xui xẻo.  Sông Ba có nhiều  nhánh phụ, trong đó phải kể sông Ea Ayunh là lớn nhất.

Sau khi tắm xả xui và làm lễ ngoài sông, tiếp tục làm lễ tổ tiên tại nhà.

– Sông Hinh từ cao nguyên Dak Lac chảy vào Sông Ba ở Phú Yên.

– Sông Đồng Nai phát nguyên từ cao nguyên Dalat, chảy xuống Di Linh, qua địa phận cao nguyên Gia Nghĩa rồi mới chảy xuống miền Đông Nam phần, gặp sông La Ngà gần Định Quán và gặp sông Bé gần Tân Uyên sau đó mới họp với sông Saigon ở Nhà Bè để chảy về Cần Giờ ở Biển Đông:

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về

4.2. Hệ thống chảy về sông Mekong

– Sông Poko, bắt nguồn từ phía tây núi Ngọc Lĩnh, có 3 nhánh sông lớn là: Dak Bla dài 141km, sông Sa Thầy dài 140km, sông DakBơ dài 150km. Phía hạ lưu sông Poko là sông Sesan. Toàn lưu vực sông Sesan có nhiều tiềm năng thủy điện và hiện có nhà máy điện Yali công suất 690 megawatt với diện tích hồ chứa nước là 64.5 km2. Sau Yali, còn dự án xây bốn đập khác trên sông này và tổng số megawatt của bốn đập này sẽ bằng 2.5 lần công suất Yali nhưng có thể với phá rừng làm rẫy của các tộc người thì tuổi thọ các đập này sẽ giảm nhanh vì lòng hồ dễ bị bùn lắng tụ làm giảm thể tích nước.

– Sông Ea H’Leo và hai chi lưu là Ia Drang và Ia Sup ở phía Tây Pleiku, bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây rồi đổ về sông Srepok sau đó chảy vào sông Mekong ở StungTreng (Kampuchia).

– Sông Srepok dài 332 km với hai nhánh sông chính tại Darlac là sông Krong Ana và Krong Kno:

– Krong Ana chảy ở phía Đông-Nam tỉnh Dak Lac, theo hướng Đông-Tây và có nhiều phụ lưu như Krong Bông, Krong Buk, Krong Pak.

– Krong Knô (Krong Nô) bắt nguồn từ phía TB cao nguyên Lâm Viên chảy theo hướng ĐN-TB

Hai sông Krong Ana và Krong Knô họp lại thành sông Ea Krông, tạo nên nhiều đất phù sa phía Đ-N Ban Me Thuot.

Ngoài các sông chính trên, miền cao nguyên còn vô số suối, khe cũng như nhiều hồ, có cái thiên nhiên như hồ Lac ở phía Đông Nam Ban Me Thuot, có cái nhân tạo như hồ Xuân Hương, hồ Than Thở ở Dalat, hồ đập thủy điện Yali, hồ đập tưới ruộng, v.v…

5. Đất đai

Vì TN có nhiều hệ sinh thái khác nhau về địa mạo, khí hậu, đá mẹ v.v nên cũng có  nhiều loại đất khác nhau.

Sau đây là những loại đất chính:

5.1. Đất đỏ

Đất đỏ (còn gọi là đất feralit, đất latosol nâu đỏ) thuộc nhóm Ferralsols (phân loại FAO).

Nhiều cao nguyên có đất đỏ do đá bazan tạo ra; đất đỏ bao trùm một diện tích rộng lớn ở cao nguyên Ban Me Thuot, cao nguyên Pleiku, cao nguyên Blao-Di Linh-Đức Trọng và cao nguyên Quảng Đức (Gia Nghĩa).

Về nguồn gốc, đất đỏ do sự phong hoá của đá bazan; dưới tác dụng của vũ lượng lớn và nhiệt độ cao, sự tan rã các đá này rất nhanh chóng; chất SiO2 trong đá bị trôi xuống sâu còn lại chất Fe2O3 và Al2O3  và vì trong đất có sắt (fer) và alumin (al) nên người ta còn gọi là đất feralit; vì có nhiều oxyd sắt nên  đất có màu đỏ.

Đất đỏ gặp ở  các cao nguyên Pleiku, Dak Lac, Gia Nghĩa,  Blao-Di Linh với diện tích ước chừng 1,3 triệu ha, nghĩa là 23% tổng số đất của toàn vùng. Nói chung, đất đỏ có độ dày sâu, có khả năng giữ ẩm độ tốt ở tầng sâu và do đó thích hợp với các loại cây kỷ nghệ lâu năm như cà phê, cây ăn trái, cây trà v.v.tuy nhiên vì cao nguyên có mùa nắng kéo dài nên các công trình thủy lợi như giếng nước, các đập, hồ chứa sẽ giúp cho phát triển nông nghiệp.

5.2. Đất feralit (podzolic) vàng đỏ

Ngoài đất đỏ, phải kể đất podzolic vàng đỏ do diệp thạch hay đá hoa cương tạo nên. Nhóm đất này rất nhiều vì có thể gặp trên các địa hình núi cao, địa hình đồi dốc và trên các loại đá khác nhau như đá phún xuất (granit) hoặc các đá biến chất như phiến thạch, sa thạch, tóm lại đây là nhóm đất có nguồn gốc địa chất phức tạp. Có thể gặp các loại đất này ở cao nguyên Lang Biang (Dalat), cao nguyên M’Drak, các vùng phía núi Ngoc Lĩnh ở bắc Kontum. Đất này dễ bị sói mòn và ít phì nhiêu hơn đất đỏ. Sự xuất hiện của đá ong (laterit) ở tầng cạn gây trở ngại cho các loài cây có hệ thống rễ sâu do đó, không thể trồng những loại cây này trên những đất có giải đá ong gần mặt đất.

5.3. Đất sét đen nhiệt đới (Black tropical clays)

Tại thung lũng Cheo Reo, có những chỗ có đất sét đen nhiệt đới vì vùng này khí hậu rất nóng và khô. Đây là những đất  nằm trên các phù sa cổ sinh gặp ở địa hình bằng phẳng, nhiều sét, úng thủy và có màu đen, khó cày bừa; vào mùa mưa, đất nhão ướt, vào mùa nắng, đất này co rút lại nên đất nhiều khe hở làm sự bốc hơi nước càng dễ dàng, do đó rất khô vào mùa nắng.

5.4. Đất đỏ bụi (Earthy Red Latosols)

Quanh thị xã Pleiku là đất đỏ bụi; tuy cũng do đá bazan hủy hoại mà thành, nhưng thời gian tạo thành đất đỏ bụi xưa hơn đất đỏ vùng Darlac; ngoài ra, sự thoát thủy tại vùng Pleiku mạnh hơn, thủy cấp sâu hơn, vì dòng sông Ba và Ea Ayunh chảy qua cao nguyên Pleiku gần biển hơn, nói khác đi các dòng sông này thoát ra biển trên một đoạn tương đối ngắn nên sông ngòi đào xẻ dữ dội hơn khiến sự xói mòn các cảnh quan mạnh hơn, vì vậy độ phì nhiêu thấp hơn.

5.5. Đất phù sa

Những đất phù sa ôm ấp triền sông dọc theo sông Ba chảy qua thung lũng Cheo Reo, dọc theo sông Krong Anna ở Đông Nam Darlac. Các dất phù sa do nhiều loại đá (bazan, granit, rhyolit) phân hủy rồi được chuyên chở theo các dòng nước và dần dần lắng tụ lại. Ven các dòng sông, đất phù sa thường cao hơn, dễ thoát nước hơn còn phù sa xa sông có nhiều thành phần sét  và ở các cảnh quan trủng nên khó thoát nước. Đất phù sa có mức độ phì nhiêu thay đổi tùy theo diện tích của bồn lưu vực, của loại đá mẹ và tùy theo khí hậu. Ví dụ: phù sa thung lũng Cheo Reo, vì khí hậu khô khan nên pH đất cao hơn (6-6.5) trong khi phù sa các vùng khác như Kontum, Ban MeThuot có pH thấp hơn (5-5.5).

Có thể gặp đất phù sa ở các vùng sau đây tại TN:

  • vùng Kontum, ven Dak Bla (Dak: sông).
  • vùng Cheo Reo, ven sông Ba và sông Ayunh.
  • vùng Ban Me Thuot, phía Đông Nam, như tại quanh hồ Lạc Thiện cũng như dọc theo hệ thống các dòng sông Krong Anna, Krong Pach.

5.6. Đất xám

Nhiều loại : đất xám điển hình (Haplic Acrisols), đất xám trên các vùng đất có mực nước không xa đất mặt, còn gọi là đất xám glây (Gleyic Acrisols), đất xám có sỏi laterit, còn gọi là đất xám kết von (Ferric Acrisols), đất xám feralit (Ferralic Acrisols). Sau đây là vài chi tiết :

Đất xám điển hình hoặc bạc màu (Haplic Acrisols) có thể gặp trên đá  macma axit và đá cát (sandstone), trên phù sa cổ sinh của các dòng sông lớn như sông Ba ở Cheo Reo, Dak Bla ở Kontum. Còn ra, có thể gặp phía tây cao nguyên Ban Me Thuot, ở bình nguyên Ea Sup do đá cát phân hủy.

Trong nhóm đất xám, các tính chất lý hoá học rất biến thiên:

  • vùng Ban Don phía tây Ban Me Thuot có nhiều cát thô, nghèo nàn và khô khan.
  • vùng Cheo Reo, đất xám có nơi đất cát thô, có nơi đất có khả năng giữ nước nhiều hơn. pH đất xám ở Cheo Reo cao (6-6.5) vì khí hậu khô khan , các nơi khác thì pH thấp hơn.
  • vùng phù sa cổ sinh các dòng sông Krong Kno, Krong Anna ở Darlac có đất xám phì nhiêu hơn vì sa cấu mịn hơn, không nhiều đá và có địa hình lượn sóng có độ dốc nhẹ, trồng lạc, hoa màu phụ…

5.7. Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá (Leptosols)

Đất này rải rác trên các vùng, đặc trưng ở trên các vùng đá sát mặt đất khó trồng trọt (Lithic Leptosols).

5.8. Đất mùn alit núi cao (Alisols)

Loại đất này gặp tại vùng núi cao độ từ 2 000m trở lên như trên các đỉnh núi  Ngọc Lĩnh, Ngọc Ang, Chư Yang Sin.

5.9. Đất nâu thẫm trên bazan (Chromic Luvisols)

Đất nâu thẫm trên bazan (Chromic Luvisols) gặp tại các địa mạo thung lũng bằng, có tầng mặt giàu mùn.

5.10. Đất đá bọt (Andosols) trên đá bọt bazan

Đây là đất trên miệng núi lửa, gặp ở các đất gần các miệng núi lửa ở Pleiku có màu nâu đen lẫn nhiều cục đá thô.

Nhìn chung về phân phối đất thì :

  • các đất đỏ nhiều nhất ở Dak Lac, Dak Nong, Pleiku và Lâm Đồng.
  • các đất podzolic (feralit) vàng đỏ thường gặp ở Kontum và Dalat.
  • các đất podzolic xám thường phân bố ở Cheo Reo (Phú Bổn) và Tây Dak Lac.
  • các đất phù sa nhiều ở Đông Nam Dak Lac.

Riêng các nhóm đất như Andosol, Alisol, Leptosol có rất ít so với các loại đất vừa kể.

6. Các sắc tộc thiểu số

Tây Nguyên có nhiều đồng bào sắc tộc, mỗi tộc người có ngôn ngữ và tập quán riêng. Nói chung, ở TN, có hai họ ngôn ngữ chính:

Họ Nam Á (Austro-Asiatique) trong đó phải kể những dân tộc theo chế độ phụ hệ như người Ba Na, Sedang, Koho, Hre, Mnong, Stieng, Koho, Mạ , Choro. Ngôn ngữ thuộc hệ gốc Mon-Khmer vì bị ảnh hưởng hai nước Phù Nam và Chân Lạp xưa kia

Họ Nam Đảo (Austronesien hoặc Malayo-Polynesien) có các sắc tộc theo chế độ mẫu hệ như Gia Rai, Rhade, Churu, Roglai, Chăm và bị nhiều ảnh hưởng của Lâm Ấp (Chiêm Thành).

Sau đây là vài chi tiết :

Bahnar. Người Bahnar ở Kontum, Pleiku, Bình Định, dân số trên 100 000 người và địa bàn cư trú nằm ở các huyện Mang Yang và An Khê, một phần lãnh thổ huyện Dak To và Kon Plong. Bahnar là dân tộc nói tiếng MonKhmer có dân số đông nhất.

Sedang. Địa bàn cư trú người Sedang ở Bắc Kontum tận mãi đến bắc Quảng Ngãi và huyện Trà Mi thuộc Quảng Nam và dân số trên 70 000 người.

Hré. Người H’Rê gần 70 000 người sinh sống ở Quảng Ngãi và Bình Định.

Mnong. Người Mnong ở Dak Lac, tây nam Lâm Đồng và bắc sông Bé; họ sống xen kẻ với vùng cư trú của người Rhade ở Dak Lac và Mạ ở Lâm Đồng nên văn hoá Mnong chịu ảnh hưởng hai văn hoá trên. Trong làng, có nhiều nhà  dài và trên nền đất (chứ không phải nhà sàn như người Rhade), trong các nhà dài ấy, thường có năm sáu đôi vợ chồng ở đó. Người Mnong có tục cà răng và căng tai để đeo đồ trang sức. Họ hiếu chiến và một thủ lãnh người bộ lạc này đã cầm chân các nhà thám hiểm Pháp rất lâu; mãi khi thủ lãnh này chết đi, người Pháp mới đi thám hiểm lại.

Nguời Mnong được thế giới bên ngoài biết đến nhiều, nhờ một nhà dân tộc học người Pháp, Condominas, đã từng chung sống tại chỗ với họ nhiều năm và có viết nhiều tác phẩm mô tả cuộc sống liên quan đến họ trong cuốn Nous avons mangé la forêt.

Koho (Cờ Ho). Người Koho ở Di Linh Lâm Đồng và miền núi Phan Thiết, dân số trên 70 000 người. Dân tộc Koho sinh sống ở Lâm Đồng, nam Di Linh hoặc trên đường Di Linh đi Phan Thiết, hoặc quanh thị xã Dalat. Họ biết làm ruộng sớm hơn các sắc tộc khác và ở trong nhà sàn dài, có cái dài hàng trăm mét, trong đó có nhiều gia đình nhỏ.

Mạ. Người Mạ ở nhà sàn, tại vùng lưu vực sông La Ngà, Đồng Nai Thượng, cao nguyên Blao-Di Linh. Trước kia cũng có tục cà răng căng tai và làm rẫy, săn bắn nhưng những năm gần đây, họ cũng như người Koho đã bắt đầu phát triển nghề làm vườn như trồng cà phê, trà. Sống theo chế độ phụ hệ.

Gié-Triêng. Sắc tộc này có địa bàn sinh sống khá rộng lớn, từ rìa đông cao nguyên Boloven (Lào) sang Dak Glây (bắc Kontum) đến huyện Phước Sơn tỉnh Quảng Nam-Đà nẳng. Ở Tây Nguyên, người bộ lạc này, ngoài nương rẩy, còn có nghề dệt vải và đãi vàng.

Rhade. Người Rhade chủ yếu sống ở Dak Lac dân số trên 140 000 người. Ngoài rẩy, họ còn biết làm ruộng nước tại vùng hồ Lak, ven sông Krong Knô, Krong Anna; người Rhade nuôi trâu bò và voi. Phụ nữ Rhade biết dệt, làm đồ gốm, đàn ông biết rèn và đan lát. Người Rhade có những trường ca (Đăm San, Đăm Di…) mang tính chất huyền thoại như người Kinh có tích Sơn Tinh Thủy Tinh. Truyện thơ Đăm San kể rằng chàng này là một tù trưởng đẹp trai, đầy khát vọng tự do và các tù trưởng khác muốn chiếm đoạt người vợ đẹp của Đăm San nên gây ra những chiến tranh khốc liệt. Đăm San thắng nhưng vẫn muốn giàu mạnh hơn nữa, chàng kéo quân lên Trời bắt Nữ Thần Mặt Trời làm vợ. Nhưng chàng đã chết vì sự ngông cuồng đó.

Jarai. Người Jarai ở Pleiku, Kontum, miền núi Phú Yên, vùng Cheo Reo, trên 180 000 người. Tộc Jarai có thể chia ra những nhóm căn cứ vào khác biệt giữa cách phát âm:

Ja Rai Chor (còn gọi là Cheo Reo. Cheo Reo là từ phiên âm ghép hai từ Chu và Chreo, tên 2 tù trưởng nổi tiếng của vùng này vào cuối thế kỷ 19)

Ja Rai Hdrung (vùng núi lửa Hàm Rồng) sống quanh thị xã Pleiku, Chư Prông

Đàn ông thường đóng khố, phụ nữ quấn váy. Ngoài làm rẩy còn đan đồ tre, mây và biết vẽ, khắc các hoa văn trên nhiều kiến trúc như nhà mả, cột đâm trâu, ống tên…; đàn bà biết dệt.

Churu. Người Chu Ru sinh sống tập trung ở thung lũng Dran trên cao nguyên Lang Biang (Dalat). Nằm giữa vùng cư trú của người Cơ Ho ở phía tây và người Raglai phía đông thuộc các huyện Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh thuộc Lâm Đồng và hai huyện Bình Thuận  là An Sơn và Đức Linh. Người Chăm và Chu Ru có chung nguồn gốc nên tín ngưỡng, kỷ thuật canh tác nông nghiệp như người Chăm, nghĩa là định cư và làm ruộng nước.

Trên TN, có hàng chục sắc tộc, nhưng chỉ có vài sắc tộc sau đây là quan trọng: Bahnar và Sedang (ở Kontum, Pleiku ), Djarai (ở Pleiku), Rhade (ở Darlac). Tổ tiên họ là những ngưòi Mélanésien và Indonésien lưu lạc đến Đông Dương rồi phải ẩn náu trên cao nguyên trong cuộc chiến giành đất đai với người Chăm và người Việt. Indonésien chỉ là một danh từ nhân học, chỉ chung các tộc thiểu số ở các vùng núi Việt, Miên, Lào, Miến, Phi luật tân. Cũng cần nhớ là trong thời đại băng giá lần cuối trong kỷ địa chất thứ tư này, mực nước biển sụt xuống đến 120 mét nên các xứ Đông Dương và Indonesia, Mã Lai đều còn dính liền với nhau (land bridge), sự qua lại các giống người bản địa tại các vùng này rất dễ dàng..

Các liên lạc Kinh-Thượng

Theo lịch sử thì năm 1711, có một phái đoàn người Thượng đến từ Nam Bàn và Trà Lai gặp Minh vương Nguyễn Phúc Khoát tại Phú Yên xin thần phục. Lúc đó, lãnh thổ 2 xứ miền Thượng này -Pleiku và Kontum ngày nay- do 2 lãnh chúa Jarai cai trị, Đôn vương (Thủy xá) và Nga Vương (Hoả Xá), hoàn toàn độc lập với Phú Xuân. Lãnh thổ xứ Đàng Trong chỉ là những đồng bằng từ chân giãy Trường Sơn ra biển.

Kontum có những dấu vết định cư của người Việt từ xưa. Thực vậy, dưới trào vua Minh Mạng và Tự Đức, công giáo bị đàn áp nên một số tu sĩ  miền Bình Định chạy lên An Khê, lần mò dọc theo thượng lưu sông Ba đến cao nguyên Kontum truyền đạo. Hội Truyền giáo Kontum được thành lập từ 1851 và từ đó nhiều giáo dân người Kinh từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định tiếp tục lên xây dựng họ đạo và mở rộng sang các làng của các sắc tộc Rơ ngao, Sedang.

Các liên lạc Chăm-Thượng

Người Chăm (Chiêm) có quan hệ mật thiết với người Thượng hơn là với người Việt. Các vua Chiêm Thành khi xây dựng các đền đài ở Trà Kiệu, Mỹ Sơn tại Quảng Nam ngày nay phải huy động một số dân lao động rất lớn nên đã tổ chức các cuộc săn bắt người Thượng ở ven núi Trường Sơn để xây dựng đền đài nhưng dần dà các dân này trốn lên lại các miền núi, hỗn huyết với các nhóm cư dân bản địa (gốc Mélanésien và Indonesien) để trở thành các nhóm Bru, Giẻ- Triêng, Tà Oi sinh sống các vùng núi Bình Trị Thiên.

Người Chăm cung cấp muối gạo còn người Thượng cung cấp các phẩm vật rừng xanh như voi rừng và các loại gỗ quý cho các vua Chiêm. Vào các thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, một số người Chăm trốn lên cao nguyên lánh nội chiến, và số người này mang nặng bản sắc hải đảo (malayopolynesien) và trở thành người Jarai, ở các tỉnh phía tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên. Sự hỗn huyết với những nhóm có trưóc sinh ra những nhóm như Bahnar và Sedang thuộc ngữ hệ Môn-Khmer và hải đảo.

Vào cuối thế kỷ 8, người Java từ biển cả, tràn vào duyên hải cướp phá nên một số dân Chăm chạy lên cao nguyên lánh nạn, hỗn huyết với các nhóm có trước và trở thành người Rhade thuộc ngữ hệ hải đảo.

Sau này vào thế kỷ 16, một số người Chăm tránh cuộc Nam tiến của người Việt, lên cao nguyên Dalat trở thành người Roglai và Churu cũng thuộc ngữ hệ hải đảo.

7. Sử dụng đất đai

Trước 1945, người Kinh chỉ gặp ở Dalat (phần lớn người miền Bắc từ các làng quanh Hà Nội) và tại thị xã Kontum (phần lớn người miền Bình Định trốn đàn áp Công Giáo từ các trào vua Tự Đức) và Ban Me Thuot là nơi Pháp có nhà tù giam giữ chính trị phạm.

Sau khi ký hiệp định Geneve 1954, nhiều đồng bào di cư từ miền Bắc (Việt, Thái, Nùng) lên định cư nhiều ở Bảo Lộc (người Việt), Tùng Nghĩa (người Thái), rồi đến phong trào dinh điền định cư dân Nam Ngãi ở Pleiku, Dak Lac để khẩn hoang lập nghiệp. Do đó, dân số TN tăng lên; sau 1975, lại thêm người Kinh cùng người các sắc tộc ở Cao Bằng, Lạng sơn dến.

Sau dây là các hệ thống nông nhiệp chính:

7.1. Du canh

Phần lớn các bộ lạc Thượng làm nương rẩy du canh; sau khi đốn cây, phát cỏ, họ đốt cỏ để sau đó cuốc đất, tỉa hạt giống; xen canh với lúa thường có khoai lang, bắp, vài loại bí bầu. Tùy theo đất tốt xấu, người ta sử dụng đất trong một chu kỳ dài hoặc ngắn: đất tốt thì có thể sử dụng 10-12 năm, đất xấu chỉ làm 5-6 năm là phải dọn đi chỗ khác. Kỷ thuật canh tác còn thô sơ nên năng suất hoa màu không cao. Làm rẫy du canh thì phải di chuyển làng mạc và hoa màu từ vùng này sang vùng khác; sau chừng 5-10 năm lại phải đốt rừng làm rẫy. Có nhiều điều tổn hại trong hệ thống này:

(a) hư hại tài nguyên rừng; các loại rừng bị đốn phá, nhường chỗ cho hoa màu lương thực.

(b) hư hại tài nguyên đất. Vì không còn tàn cây che chở nên đất đai dễ bị sói mòn, các dưỡng liệu trong đất bị cuốn trôi đi hết, làm dất trơ trọi đá laterit. Đất mất dưỡng liệu, đất nghèo đi, và dân phải di chuyển đi nơi khác.

(c) hư hại tài nguyên nước. Vì có rừng nên hệ thống rễ có thể giữ lại nước trời làm sung mãn thủy cấp; nay mất rừng, mưa không còn gì cản trở, nước chảy thẳng xuống khe suối, làm trôi mòn đất và nước ngầm mất đi.

Vì tài nguyên quanh buôn làng bị suy thoái, nên thiếu lương thực, do đó lại phải đi làm nương rẫy khu rừng khác và chu kì lại tiếp diễn: thiếu lương thực-phá rừng-đất nghèo đi- du  canh-thiếu lương thực. Và nghèo cứ đẻ ra nghèo, kéo dài muôn kiếp.

Trong hệ thống du canh, các cây trồng không đa dạng; thực vậy vào các nương rẫy, ta chỉ gặp vài cây như bắp, lúa rẫy, hoạ hoằn vài cây rau  chứ không thấy các hoa màu khác như các cây họ đậu cũng như các cây ăn trái hoặc các cây công nghiệp dài ngày ( cà phê, trà ).

Trong hệ thống du canh, không có sử dụng phân hữu cơ và phân hoá học; heo thì thả rong nên không có phân chuồng; trâu bò chỉ chăn thả trong rừng, không có chuồng trại nên không có phân hữu cơ.

Các hoạt động trước sản xuất như hạt giống tốt,  nông cụ cải tiến, hệ thống nước tưới và sau sản xuất như chế biến, tồn trữ hầu như không có nên sản xuất lương thực thấp.

7.2. Định canh

Hệ thống nông nghiệp có tính cách bền vững hơn với sự định canh. Bền vững vì các cây trồng đa dạng và đa niên ( trà, caphê, dâu tằm, cây ăn trái, tiêu..)  nên bớt xói mòn, bớt hư hại tài nguyên hơn. Những loại cây đa niên thường có rễ sâu và có tàn lá nhiều nên làm giảm tốc độ của nước mưa, làm nước mưa thấm từ từ vào đất, thay vì chảy tràn theo sườn đồi xuống, kéo theo sự mất đi các dưỡng liệu trong đất.

Cây ăn trái

TN có nhiều giống cây nhiệt đới như chuối, bưởi, dứa, sầu riêng nhưng cũng có cây á nhiệt đới như cây bơ, cây hồng, ôn đới như đào, mận Dalat v.v.

Đặc biệt tại TN phải kể một loại cây mới du nhập thời sau 1954 từ Phi Luật Tân, đó là cây bơ (Persea gratissima), còn gọi là cây avoca, trồng nhiều ở Bảo Lộc và Ban Me Thuột. Cũng có cây ma ca (Macadamia) xuất xứ bên Hawai và nay nông dân cũng có trồng ở Cao nguyên.

Cà phê

TN có nhiều vườn cà phê. Cà phê có hai loại chính là cà phê chè và cà phê vối.

Cà phê chè (Coffea arabica). Có nguồn gốc ở miền núi  Ethiopia Phi Châu. Đây là loại sản phẩm có giá nhất trên thị trường quốc tế. Cà phê chè thường tự thụ phấn nên có độ thuần giống cao hơn các loại hình cà phê khác. Tỷ lệ caffeine từ 1.3-1.7%. Giống này thường bị bệnh gỉ sắt và sâu đục thân nên chỉ có thể trồng các vùng núi cao mà thôi. Cây cà phê chè  ưa khí hậu mát mẻ và  ánh sáng tán xạ do đó cần trồng cây che bóng vì nếu không có hệ cây che bóng thích hợp  sẽ gây ra hiện tượng cây phân hoá mầm hoa và đậu qủa quá sức (overbearing) làm cây chóng bị kiệt sức, khó phục hồi trở lại.

Cà phê vối (Coffea robusta). Cao nguyên Darlac trồng loại cà phê vối vì loại này hợp với các vùng cao độ thấp, nóng ẩm, mưa nhiều. Cây cà phê vối dễ trồng, không cần đất tốt như cà phê chè, có khả năng kháng sâu bệnh khá. Cà phê vối rất sợ rét và không chịu được các vùng có gió mạnh. Năng suất có tưới nước 3-4 tấn một hecta.

Hiện nay, diện tích cà phê của bốn tỉnh TN là 300 000ha (trên tổng số 350 000ha toàn quốc) trong đó Dak Lac với diện tích 172 000 ha thu được 280 000 tấn. Nhờ năng suất cao thêm vào đó là chế biến, phân loại nên cà phê Dak Lac cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Tiêu (Piper nigrum)

Cây tiêu phân bố chủ yếu tại vùng Di Linh, Blao dưới hai dạng: trồng quanh vườn nhà và trồng xen trong vườn cà phê. Phần lớn nông dân trồng tiêu  trên đất nâu và đất đỏ nâu. Trong việc trồng tiêu, vốn đầu tư ban đầu khá lớn; tùy theo khả năng huy động vốn ban đầu mà phương pháp trồng tiêu khác nhau: trồng trên nọc sống, trên nọc chết và trên nọc xây bằng gạch..Trồng tiêu trên quy mô lớn, phải có đất thích hợp và gần nguồn nước.

Trà

Trà  trồng nhiều nhất ở Lâm Đồng và Pleiku. Năng suất trà ở Lâm Đồng, nhờ mưa nhiều nên đạt 16-18 tấn/ ha. Ngoài những nhà máy chế biến trà, có một số xưởng chế biến nhỏ thuộc các gia đình có truyền thống làm trà. Muốn phát triển ngành trà, cần các biện pháp: cung ứng phân bón, máy bơm, cho vay vốn, hiện đại hoá qui trình chế biến để nâng cao chất lượng cho xuất cảng, cải thiện đất đai như trồng cây bóng mát cho các đồi trà, giữ ẩm cho đất, đa dạng hoá công nghiệp  chế biến để có sản phẩm đa dạng (trà túi, trà hoà tan, trà đen, trà xanh) có chất lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới.

Cao su

Tại TN, caosu được trồng tại 3 tỉnh: Kontum, Pleiku và Dak Lac. Cao su dễ xuất cảng và cũng là nguyên liệu để sản xuất nhiều loại sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước. Biện pháp phát triển: tăng cường vốn đầu tư trong chế biến, thâm canh, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Rau cải

Dalat vốn là nơi sản xuất rau cải cung cấp rau xanh cho các tỉnh miền Nam : các loại rau cải chính yếu là cải bắp, cà rốt, choufleur (xúp lơ), artichaut (atisô), xà lách, cải pó xôi, củ dền, củ rađi, ngoài ra còn là nơi sản xuất khoai tây và các loại đậu. Các khó khăn nghề trồng rau cải Dalat là : đất đồi dốc thoải chứ không phải đất phù sa bằng phẳng, nước tưới, phân hữu cơ và vô cơ.

Hoa

Hoa ở vùng Dalat rất đa dạng: mimosa, hoa hồng, thược dược, qùi, pensée, hoa violette, cúc, layơn (glaieul), ớctăngxia, mimosa, đỗ quyên, hồng tràm, liễu tràm, nhiều màu sắc chứ không phải là các hoa miền đồng bằng như vạn thọ, mồng gà, cẩm chướng, huệ.

Rừng Dalat còn nhiều hoa phong lan với vẻ đẹp diễm lệ, sang trọng; phong lan được mệnh danh là nữ chúa các loài hoa. Dọc bờ hồ Dalat, có hoa anh đào.

Những nông dân trồng hoa này thường gốc ở các làng Ngọc Hà, Nhật Tân, Nghi Tàm chính là các làng hoa miền Bắc; ngoài ra, Dalat còn xuất cảng hoa địa lan. Cũng như ngành trồng rau cải, nghề trồng hoa cũng đòi hỏi trình độ cao về sản xuất và thương mại.

8. Dân số

Những thập niên đầu thế kỷ 20, Tây Nguyên rất thưa thớt dân. Chỉ có chừng 300 000 người sống ở Tây Nguyên trước 1945, trong đó người Kinh chỉ chiếm ít hơn 10% dân số. Năm 1956, dân số tăng lên 530 000 người và năm 1976, dân số TN là 1 226 000 người.  Đến 1996, là 3.2 triệu người tức 10 lần nhiều hơn trước tháng 8-1945 và 3 lần nhiều hơn từ 1975 vì người Kinh và một số người miền Thượng du BắcViệt (Tày, Dao, Mèo…) lên lập nghiệp. Hiện nay người Việt chiếm trên 50% trong dân số Tây nguyên. Hiện nay, dân số TN tăng đến 7% hàng năm là vì:

Tăng tự nhiên: tỷ lệ sinh đẻ của các dân tộc Tây nguyên rất cao so với toàn quốc vì tỷ lệ chết giảm đi nhiều do đó tỷ lệ tăng tự nhiên cao.

Tăng cơ học: thực vậy, hiện nay nhiều dân tộc thiểu số miền Bắc (Tày, Dao, Nùng..) tràn lên Tây nguyên để tránh đói khổ các nơi nguyên quán. Nhiều tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai cũng như các vùng duyên hải miền Bắc Trung phần như Thanh Hoá đều có di dân nhiều tại đây sau 1976. Nếu chia theo tộc người thì người Nùng, người Tày, người Dao, người Hmông (Mèo) đều có mặt. Ngày nay, người  bản địa như các tộc Rhade, Jarai v.v. chỉ chiếm không tới 50% dân số trên cao nguyên và trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ; đó có thể là một ngòi nổ âm ỉ trong tương lai.

9. Vài vấn đề phát triển

9.1. Phì nhiêu đất đai

Sự sói mòn, sự thâm canh đòi hỏi đất đai phải được bảo vệ chống xói mòn và tăng cường độ phì nhiêu đất. Duy trì độ phì  nhiêu là duy trì chất hữu cơ, các lý tính của đất, duy trì các chất dinh dưỡng, tránh xuất hiện các độc tố. Muốn vậy, nhiều biện pháp cần được đặt ra. Trên các đất dốc mạnh hoặc nhiều đá, cần duy trì và tăng cường độ che phủ bằng rừng; trên các đất dốc vừa và nhẹ, nên phát triển vườn đồi và vườn nhà. Các buôn Thượng thường gần khe, suối hay nguồn nước sinh hoạt do đó nên giúp họ phát triển vườn nhà, trồng quanh nhà rau cải, cây ăn trái để giúp cải thiện dinh dưỡng trong bữa ăn. Trồng mỗi nhà vài chục cây cà phê trong vườn vừa  giúp bớt nạn xói mòn, vừa tận dụng tài nguyên. Trong vườn đồi, nông lâm kết hợp có nghĩa là có cây cao, cây thấp, cây tầng dưới để có thể tận dụng được ánh sáng,  có cây rễ sâu, cây rễ cạn để tận dụng sự phân phối các dưỡng liệu có trong các tầng đất khác nhau. Sự tăng cường chất hữu cơ trong đất bằng cách sử dụng phân chuồng, phân mục rất  cần thiết để hỗ trợ các phân vô cơ. Người Thượng chỉ chăn thả trong rừng, không có chuồng bò, chuồng heo nên lượng phân hữu cơ bị mất đi, trong khi đó phân hữu cơ giúp đất tạo ra nhiều chất lân vốn bị cố định hoá trong các loại đất đỏ nhiều sắt và nhôm. Vì TN có nhiều thảo nguyên, đồng cỏ nên có nhiều tiềm năng nuôi đại gia súc như bò sữa. Ngành chăn nuôi tiểu gia súc (heo) cũng cần chú ý vì heo có chu kỳ nhanh, cho nhiều phân hữu cơ cải tạo đất; tuy nhiên cần các dịch vụ yễm trợ như công tác thú y,  thực phẩm gia súc, chế biến, tồn trữ.

9.2. An toàn lương thực

Các hệ thống canh tác cổ truyền của phần đông đồng bào Thượng như chọc lỗ, châm hạt giống, lấy chân dậm lại… không tạo ra được nhiều sinh khối trước sự gia tăng dân số. Như vậy, công tác khuyến nông, huấn luyện nông dân trở thành quan trọng với các sắc tộc: cần phát triển tại các khu vực đồng bằng, các thung lũng, các nơi đất mà thủy cấp không sâu cho lắm (2-3 mét) những hoa màu lương thực như lúa, bắp, khoai lang cũng như đậu nành.  Thủy nông, phân hoá học, thâm canh các vùng này giúp tăng gia lương thực cho Tây Nguyên và như vậy làm giảm bớt áp lực trồng cây lương thực trên đất dốc. Các đồng bằng Lạc Thiện ở Dak Lac, đồng bằng sông Ba ở Phú Bổn (nay thuộc tỉnh Gia Lai), thung lũng An Khê, dọc sông Bla gần Kontum cần được đầu tư phát triển. Nên lập các đập thủy nông nhỏ đưa nước vào ruộng; ngoài những đập nước, có thể sử dụng các xe quạt nước (noria) để đem nước vào ruộng vì mực nước các sông suối rất gần mặt đất  như Bình Định, Quảng Ngãi vẫn làm.

An toàn lương thực trên đà tăng gia dân số cũng đòi hỏi sự canh tác định canh thay vì du canh,  nông lâm kết hợp, trồng cây lương thực với cây lâu năm, khuyến nông với các chương trình phì nhiêu đất đai.

9.3. Sở hữu đất đai (Land tenure)

Hiện nay, trên TN, người Kinh mua lại đất của người Thượng với giá rẽ mạt và chỉ có người Kinh mới biết cách hợp thức hoá như xin giấy sử dụng đất đai (land use certificate) do đó, người Thượng dần dà không còn sở hữu chủ đất đai, mất đất sản xuất mà không có đất thì không đi vay tiền phát triển được vì đất được dùng để thế chấp trong khi đi vay. Do đó phải ngăn cấm ngay các cuộc mua bán như vậỵ.

Mỗi làng trên TN có lãnh vực đất đai tức địa vực riêng, không có làng khác lân cận đến chiếm được. Có nhiều khu rừng gần làng, tưởng như vô chủ, nhưng kỳ thực là của làng và người dân làng có thể đến đó bứt mây, lấy măng, hái tổ ong cho mật. Như vậy, dân làng nào cũng chỉ được làm rẫy, hái lượm, săn bắn trong địa vực của mình. Nay với sự gia tăng các cộng đồng người miền xuôi đến (cả Kinh lẫn Thượng du Bắc Việt), họ không đủ đất để sản xuất, không được lấy gỗ làm nhà theo truyền thống. Quyền làm chủ và lợi ích bị xâm phạm nên nhiều hiện tượng tranh chấp đất đai luôn luôn xẩy ra và đây cũng là một ngòi nổ cho các xung đột về lâu về dài. Do đó, cần qui định diện tích mỗi làng tương ứng với việc tăng gia dân số và tập quán làm ăn của mỗi tộc người và giao đất, giao rừng cho dứt khoát để họ có trách nhiệm gìn giữ và sử dụng lâu dài, bền vững; các cơ sở quốc doanh trung ương tại địa phương như các nông trường chiếm qúa nhiều đất đai mà không đủ sức quản lý, lại làm ăn thua lổ vì guồng máy hành chánh qúa nặng nề.

Lại còn có trường hợp ngân hàng cho vay để khai hoang, nhưng nếu đáo hạn mà không đủ tiền để trả nợ hoặc không hoàn vốn kịp thời cho ngân hàng, chính quyền lợi dụng lúc đó xiết luôn đất và chuyển cho người di dân mới đến để thuê (ở Việt Nam, đất đai thuộc Nhà Nước). Có chổ, người Thượng phải cho con ở đợ với chủ nợ để trừ nợ.

9.4. Hoạt động phi nông nghiệp

Tài nguyên đất đai có hạn, nông nghiệp tiến bộ sẽ làm trội ra một số lao động nông thôn. Do đó, các hoạt động phi nông nghiệp như trong khu vực chế biến (chế biến các nguyên liệu trong nông nghiệp như cà phê, cao su, cây ăn trái, lúa gạo, trà, tơ tằm..), khu vực dịch vụ ( chuyên chở, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, trạm xăng, sửa chữa xe cộ), khu vực thương mãi, khu vực doanh nghiệp  nhỏ và vừa, khu vực tiểu công nghệ truyền thống của người Thượng như đan lát, dệt, điêu khắc, mộc v.v. để tạo ra những mặt hàng có màu sắc TN sẽ giúp tạo công ăn việc làm cho  lao động mỗi năm.

9.5. Vấn đề giáo dục và huấn nghệ

Ai cũng biết muốn thoát khỏi chu kỳ nghèo thì vấn đề giáo dục học vấn là một điều kiện ắt có (nhưng chưa đủ!). Tại TN, các dân tộc thiểu số vẫn học theo các chương trình của miền xuôi và vì nội dung các chương trình giáo khoa này không hợp với người sắc tộc nên họ bỏ học rất nhiều. Nội dung chương trình học phải tôn trọng các khác biệt văn hoá của các tộc ít người chứ cứ khư khư lấy chương trình miền xuôi đem lên miền Thượng áp dụng một cách máy móc là không thực tế. Tại các vùng đông người bản địa như Jarai, Rhade thì nên có một chương trình song ngữ, dạy tiếng địa phương vài năm đầu rồi mới dần dần thêm tiếng Việt vào để các học sinh đỡ bỡ ngỡ. Điều này cũng cần được ứng dụng cho vùng  các tộc khác như người Bahna ở Kontum, người Koho ở Lâm Đồng v.v.. Giáo dục cần được đầu tư liên tục, đầu tư về lâu về dài mới có kết qủa, nhưng giáo dục sẽ kéo theo một loạt hậu qủa bền vững như bớt sinh đẻ, chất lượng cuộc sống cao hơn, kinh tế vững mạnh hơn. Hiện nay, số học sinh bỏ học ở TN đứng ở tỉ lệ cao nhất nước.

Thất học sẽ kéo theo nghèo đói vì thất học, không biết chữ thì khó huấn luyện ngành nghề cho thanh niên. Một thành phần đông đảo không nghề chuyên môn tràn về các thị thành sẽ kéo theo sức ép của thị trường lao động và gây ra thêm các vấn nạn xã hội.

Giáo dục phụ nữ giúp điều hoà sinh đẻ, bớt sức ép dân số.

9.6. Vấn đề chế biến

Các nông phẩm sản xuất ra từ lúa, đậu nành, cà phê, trà cần được biến chế để tăng thêm giá trị tiêu thụ, dễ thương mãi hoá, dễ xuất cảng mà lại tạo công ăn việc làm. Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân cần được nâng đỡ trong những đầu tư này. Cái quan trọng là hướng vào giảm chi phí hàng sản xuất để dễ xuất cảng và chỉ đầu tư vào các dự án công nghiệp chế biến có hiệu qủa. Thị trường trong nước cũng cần được chú trọng vì dân số đông có thể đẩy mạnh tiêu thụ.

9.7. Năng lượng thủy điện và năng lượng mặt trời

TN nhiều tiềm năng sản xuất điện; ngoài đập Yali đang xây, trước kia, thời Việt Nam Cọng Hoà đã có nhà máy điện Da Nhim giữa đường Dalat đi Phan Rang, đó là chưa kể các nhà máy thủy điện nhỏ ở Dalat hoặc Ban Me Thuot ( Drayling). Nhiều vị trí trên sông suối có thể sử dụng xây các nhà máy thủy điện nhỏ (microcentrale). Để bảo đảm tuổi thọ các hồ nước, cần tăng độ che phủ rừng quanh lưu vực. Trên cao nguyên Kontum, đã có nhiều dự án nghiên cứu cho thấy có những vị trí có thể xây thêm các hồ thủy điện khác như Thượng Kontum, sông Bla, sông Poko. Tại các cao nguyên khác như cao nguyên Dak Lac, cao nguyên Dak Nong cũng có nhiều vị trí thuận lợi trên các sông suối để tạo ra thuỷ điện. Thung lũng sông Ba tức Cheo Reo là vùng rất nóng có tiềm năng sử dụng năng lượng mặt trời để bơm nước, tưới cây, v.v…

9.8.  Tài nguyên bauxit

TN cũng có nhiều nơi có quặng bauxit nghĩa là chứa nhôm.

9.9. Du lịch

TN có nhiều đặc điểm dễ tổ chức du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, góp phần vào sự phát triển bền vững. Thực vậy, miền TN rất đa dạng :

– về thảo mộc: rừng thưa, rừng dày, rừng tre, nứa, rừng thông -về động vật: khỉ, nai, mễn, voi, thỏ rừng, heo rừng, chim rừng,

– về văn hoá bản địa của hàng chục sắc tộc rải rác, như mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, các âm nhạc cồng chiêng vang dội cùng các điệu múa của các tộc thiểu số.

Những vùng núi hoang vu, những hồ nước thủy điện, là những nơi lý tưởng tổ chức du lịch sinh thái.

9.10. Nưóc

Tây Nguyên là một trong những vùng thường xuyên chịu tác động nặng nề bởi hạn hán, thiếu nước sinh hoạt, đặc biệt trong vài năm gần đây diện tích cây trồng bị ảnh hưởng bởi hạn hán liên tục tăng qua các năm. Một trong những biện pháp cấp bách phòng chống hạn hán  là  xây dựng, phát triển hệ thống ao, hồ nhỏ, nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống thủy lợi trên từng địa bàn thôn, xã; đồng thời nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ, giữ gìn và tiết kiệm nguồn nước tưới quanh năm cho cây trồng. Bên cạnh đó, cũng phải xây dựng những công trình thủy lợi lớn, đặc biệt là các hồ chứa, đập dâng, trạm bơm.

10. Kết luận

Như trên đã trình bày TN có nhiều triễn vọng phát triển vì có nhiều tiềm năng về đất (đất đỏ tốt, sâu), về thủy lợi ( sông, suối ), về rừng. Nhưng tài nguyên thiên nhiên chỉ là một yếu tố cần, nhưng chưa đủ. Thực vậy, muốn phát triển, các yếu tố khác như quản lý, tài chính, giáo dục v.v.cũng quan trọng Hiện nay, ta chứng kiến có sự chênh lệch lớn trong sự phát triển của  các thành phần  dân tộc tại đó : các tộc người bản địa có tỷ lệ thất học rất cao, tỷ lệ đói nghèo cũng lớn so với người miền xuôi. Trở ngại ngôn ngữ trong các công tác xã hội, khuyến nông khi tiếp xúc với dân cũng là một khó khăn.

Có sự liên hệ hữu cơ giữa nhiều vấn đề : nông và lâm, nông và súc, liên hệ giữa dân số và tài nguyên, giữa dân số và môi sinh, giữa giáo dục và dân số. Sự tiếp cận toàn bộ giúp ta hiểu các vấn đề để tác động sao cho có hiệu qủa cao.

Một loạt chương trình đồng bộ khác cũng cần thiết như  giáo dục cơ sở, cải thiện y tế, nước uống, khắc phục tình trạng người dân thiếu đất sản xuất, vốn vay để sản xuất-chế biến-xuất cảng, đó là chưa nói đến việc tạo cho các tộc người bản địa một môi trường bình đẳng với người Kinh bằng cách giúp con em họ có cơ hội tham gia trong mọi ngành công vụ như trong y tế, giáo viên, cảnh sát, quân đội.. tóm lại tăng cường năng lực cho các dân tộc bản địa.

Thái Công Tụng

Thái Công Tụng

Cựu học sinh Quốc Học Huế, Kỹ sư Nông Học và Cử Nhân Khoa Học tại Toulouse (Pháp). Tiến sĩ Khoa học (1965), Giáo sư các Đại học khác nhau trong nước: Đại Học Khoa học, Đại Học Văn Khoa, Đại Học Nông Lâm Saigon.

Mây và con người

Thái Công Tụng

1. Dẫn nhập 

Mây đi liền với khí hậu nên khi xem tin thời tiết trưóc khi đi ra khỏi nhà, các bản tin khí tượng có đề cập đến nhiệt độ, áp suất không khí và mây. Nói về mây, ta có mây vàng, mây trắng, mây xám, mây đen v.v. Mây đi liền với văn học nên tựa đề một quyển sách của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh có tựa Đường xưa mây trắng. Trong điện toán có thuật ngữ điện toán đám mây.

Nhà thơ cũng đề cập nhiều đến mây:

Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
(Xuân Diệu)

Hàn Mac Tử có câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây”.

Nguyễn Khuyến ca tụng mây trời xanh ngắt:

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

https://www.youtube.com/embed/vcZMXt4z37M
Chiều Tím, thơ Đinh Hùng, nhạcc Đan Tho, ca sĩ Ý Lan trình bày

Nhiều nhạc sĩ cũng dùng mây làm đối tượng bài hát nên ta bắt gặp đó đây Chiều tím, Chiều vàng v.v.

Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài
Sầu trên phím đàn, tình vương không gian,
Mây bay quan san, có hay?
Đàn nhớ từng cánh hoa bay, vần trăng viễn hoài
Màu xanh ước thề, dòng sông trôi đi
Lúc chia tay còn nhớ chăng?

hoặc:

Trên đồi xanh chiều đã xuống dần
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng

https://www.youtube.com/embed/zLAtyzRKmYI
Chiều Vàng của NS Nguyễn Vân Khánh, ca sĩ Hà Thanh trình bày

Mây cũng có trong thành ngữ quen thuộc ‘bèo dạt mây trôi’ và được phổ biến thành nhạc đầy chất trữ tình với các yếu tố như chim, cá, mây, trăng, gió v.v. cho thấy cảnh vật sâu lắng tâm hồn của làng Việt, nông thôn Việt.

Truyện Kiều cũng có nhiều câu thơ có chữ mây:

– Khi nói về thời tiết đẹp:
Gió quang, mây tạnh thảnh thơi

– Khi nói về thời tiết xấu:

Đùng đùng gió đục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay

hoặc:

Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây

Khi còn hi vọng, Cụ Nguyễn Du cũng dùng chữ mây vì sau cơn mưa, trời lại sáng:

Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngỏ, vén mây giữa trời

Hơi nước dưới đất bốc lên cao, gặp lạnh sẽ ngưng tụ tạo thành các giọt nước nhỏ hay tinh thể nước đá, cùng với hàng tỷ giọt nước nhỏ khác tạo thành mây mà con người có thể nhìn thấy. Nói khác đi, mây là khối các giọt nước ngưng tụ hay nước đá tinh thể treo lơ lửng trong khí quyển ở phía trên Trái Đất. Ta thường xem mây để tiên đoán thời tiết vì mây là một bộ phận quan yếu về thời tiết. Chẳng thế mà Liên Hiệp Quốc có Ngày Thế Giới về Mây, cũng như đã có Ngày Thế Giới về Rừng, Ngày Thế Giới về Nước, Ngày Thế Giới về Khí Tượng v.v.

Tiên đoán thời tiết cũng phần nào dựa vào mây vì mây có vai trò quan trọng trong điều tiết khí hậu, trong chu kỳ nước. Thế nên Tổ chức Khí tượng Thế giới của Liên Hiệp Quốc lựa chọn chủ đề Ngày Khí tượng thế giới năm 2017 là “Hiểu biết về mây” nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của mây trong chu kỳ nước, trong điều tiết khí hậu và truyền tải thông điệp về sự cần thiết của việc tăng cường đầu tư nghiên cứu, phổ biến thông tin, kiến thức và nâng cao hiểu biết về mây, góp phần nâng cao hiệu quả việc tiên đoán thời tiết cũng như nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của hoạt động khí tượng, thủy văn trong các hoạt động kinh tế, xã hội, phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai.

2. Mây trong ca dao tục ngữ Việt

Ca dao Việt cũng dùng mây để tiên đoán thời tiết. Nhiều câu ca dao sau đây cho thấy nông dân Việt thường nhìn mây hoặc sao ban đêm để tiên đoán thời tiết:

-Vàng mây thì gió, đỏ mây thì mưa.
-Trời hôm mây kéo bối bừa
Trời còn nắng ráo ta chưa vội gì Bao giờ kéo vảy tê tê
Sắp gồng, sắp gánh ta về kẻo mưa.
-Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
-Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
-Chớp đông nhay nháy Mà gà gáy thi mưa
-Chớp đằng đông, vừa trông vừa chạy
-Đêm trời trăng, trăng sao không tỏ, Ấy là điềm mưa gió tới nơi.
Đêm nào sao sáng xanh trời,
Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày. Những ai chăm việc cấy cầy,
Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.
– Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng

3. Các màu sắc của mây

Màu sắc mây có được là do mây phản chiếu lại ánh sáng mặt trời; ánh sáng mặt trời gồm nhiều màu, mỗi màu có độ dài bước sóng riêng:

– Tia tử ngoại là tia sóng ngắn, từ 10 đến 380 nm (nanomet), mắt thường không nhìn thấy được. Hầu hết các tia sóng ngắn nhỏ hơn 290nm gây độc cho cơ thể bị lớp khí quyển hấp thụ ở độ cao 25-30km.

Ánh sáng nhìn thấy có độ dài bước sóng 380-780nm, gồm nhiều tia có màu sắc khác nhau: tia tím, tia xanh, tia lục, tia vàng, tia đỏ.

– Tia hồng ngoại có độ dài bước sóng lớn (trên 780nm), mắt thường không nhìn thấy được.

Trong quang phổ, màu lam và lục là có bước sóng tương đối ngắn, trong khi đỏ vàng là có bước sóng dài. Các tia sóng ngắn dễ dàng bị tán xạ bởi các giọt nước, còn các tia sóng dài dễ bị hấp thụ.

Màu sắc của mây là do phản xạ từ ánh sáng Mặt Trời đến toàn bộ 7 độ dài bước sóng ánh sáng nhìn thấy (vàng, đỏ, cam, lục, xanh, lơ và tím), do vậy có màu trắng, nhưng chúng cũng có thể có màu xám hay đen nếu chúng quá dày hoặc quá đặc do ánh sáng không thể đi qua.

Các đám mây cũng có thể dày hay mỏng: đám mây dày có thể đạt đến 7 – 8 nghìn mét, đám mây mỏng thì chỉ có mấy chục mét.

Ánh sáng mặt trời khi đến bầu khí quyển của Trái Đất sẽ bị khuyếch tán ra nhiều phía bởi đủ mọi loại khí trong không khí; tuy nhiên, ánh sáng màu xanh bị khuyếch tán nhiều hơn các màu kia vì độ dài sóng ngắn hơn; đó là lý do tại sao ta thường thấy bầu trời màu xanh, đúng như trong bài hát Bức họa đồng quê của nhạc sĩ Văn Phụng:

Trời xanh xanh bao la mây trắng trắng trắng xóa

Tia nắng tưng bừng chiếu trên đồng lúa vàng
Ðàn chim, chim chim non đang ríu ríu rít hót tung cánh bay nhẹ lướt trên cành la đà

Câu ca dao sau đây phân biệt 3 loại mây:

Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng

Quang Dũng nói về mây trắng:

Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?

Nhiều bản nhạc Việt như Chiều vàng, Chiều tím, Giọt nắng hồng, v.v. đủ nói lên nhiều sắc màu của mây trong nhạc Việt. Mây trên trời đa phần đều là màu trắng pha một chút xám. Nhưng mây cũng có nhiều màu sắc khác nhau: có mây màu hồng, có mây màu vàng, màu xám, màu tím, màu đỏ v.v, tùy điều kiện thời tiết:

– Mây vàng

Bà Huyện Thanh Quan có câu thơ tả cảnh hoàng hôn:

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

Bảng lảng vì chen lẫn giữa sáng và tối. Vào lúc mặt trời lặn, ta bắt gặp nhiều màu ở chân trời: ánh nắng mặt trời đều chiếu nghiêng qua một tầng khí quyển rất dày, -dày 10 lần nhiều hơn khi Mặt Trời ở chân trời so với lúc Mặt Trời ở thiên đỉnh- nên các tia sóng ngắn (tím và xanh) bị tán xạ dần hết, chỉ còn tia màu đỏ hay màu da cam là tia sóng dài mới dễ bị hấp thụ, khiến chúng bị nhuộm thành một màu cam đỏ hay màu vàng.

Nhà nhạc sĩ ca tụng Chiều tím, Chiều hồng:

Chiều nay sương khói lên khơi.
Thùy dương rũ bến tơi bời.
Làn mây hồng pha ráng trời.
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người.
Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa.
Một lần qua dạt bến lau thưa.
Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về

-Trời tây lãng đãng bóng vàng (Kiều)

-Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió hiu hiu thổi, mây vàng êm trôi (Bàng Bá Lân)

– Mây hồng

Vào mùa hè, trời nắng đẹp nên mây có màu hồng như trong bài hát Hè về của Hùng Lân:

Trời hồng hồng, sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song

hoặc trong thơ:

Mây hồng dừng lại sau đèo
Ngàn cây nắng nhuộm bóng chiều không đi

– Mây xám

Ngàn mây xám, chiều nay về đây treo lững lờ
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vừa
Rồi từ đó, loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền
Để người về hát đêm hồng
Địa đàng còn in dấu chân bước quên.
(Bài hát Dấu Chân Địa Đàng)

– Mây trắng

Thơ của Lý Bạch có nói đến loại mây trắng trong bài Hoàng Hạc Lâu:

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.

Dịch nghĩa:

Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.

– Mây đen

Vì ánh sáng Mặt Trời không xuyên qua được một tầng khí quyển dày:

Trời đêm mây kéo tối rầm,
Rầu rầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương
(Kiều)

– Mây trắng

Vì các hạt nước trong mây có đủ để phân tán độ sáng của 7 độ dài bước sóng khác nhau (đỏ, cam, lục, xanh, tím, tím lợt), hoặc gặp lúc trời nắng ráo hay nhiều mây, lượng mây trên bầu trời rất ít, được mặt trời chiếu sáng.

Ngoài màu sắc của mây, phải đề cập đến độ dày của mây vì có đám mây dày có thể đạt đến 7-8 nghìn mét, đám mây mỏng thì chỉ có mấy chục mét:

  • Nếu là các đám mây mỏng, ánh sáng đi qua dễ dàng ta thấy có màu trắng.
  • Nếu là đám mây dày thì ánh sáng mặt trời khó có thể xuyên qua được, vì thế mây có màu xám.

Mây không cố định một chỗ vì mây cũng bị gió cuốn đi, như lời ca trong bản nhạc nọ:

Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người

Mây đỏ, da cam, hồng xảy ra chủ yếu vào lúc bình minh hay hoàng hôn, và chúng là kết quả của sự tán xạ ánh sáng của khí quyển. Mây tự bản thân nó không có những màu này, chúng chỉ phản xạ các tia sóng dài (không tán xạ) của ánh sáng là những bước sóng chính trong khoảng thời gian đó. Nhiều bản nhạc ca ngợi màu tím lúc hoàng hôn như trong bài Chiều tím:

Chiều hoàng hôn tím cả dòng sông
Đò neo bến vắng mà nhớ anh tha thiết trong lòng
Người anh sang sông quên lời ước
Để lại tình em mênh mông sông nước
Con sáo sổ lồng sáo bay theo pháo đỏ rượu nồng

4. Các hình dạng của mây

Mây trong quá trình biến đổi liên tục thể hiện bằng nhiều hính dạng, song có thể quy định một số loại hình chủ yếu luôn luôn quan sát được trong khí quyển, chúng có thể kết hợp thành nhóm lớn. Căn cứ vào cấu trúc vật lý, hình dạng, sự phát triển và độ cao của mây, quy định gồm 10 loại mây thuộc 3 tầng là: mây tầng trên, mây tầng giữa và mây tầng dưới.

Căn cứ vào cao độ của tầng mây, dựa vào các tiền từ sau đây:

Cirro: chỉ các loại mây tầng cao (trên 6000 mét)

Alto: chỉ các loại mây tầng giữa (giữa 2000 và 6000 mét)

Strato: chỉ cac loại mây tầng thấp (dưới 2000 mét)

Căn cứ vào hình dạng mây, cũng có nhiều danh từ tiếng latin dùng để chỉ:

Stratus: mây xám đầy trời, chứa giọt nước mịn

Cirrus: với nhiều tơ trời trắng, chứa tinh thể nước đá

Cumulus: mây màu trắng xóa, phía trên trông như cải hoa

Nimbus: mây báo trời mưa

Người ta gom lại các từ ghi trên để xác định được 10 loại mây sau đây, theo độ cao của tầng mây:

Tầng cao: trên 6000 mét

  1. Mây ti (cirrus, viết tắt Ci): có những dải mỏng, không gây mưa, thời tiết tốt. Mây ti là những đám mây riêng lẻ mảnh dẻ có kiến trúc sợi không có bóng, thường có màu trắng, nhiều khi có vẻ sáng như tơ. Bao giờ mây ti cũng cấu tạo bởi những tinh thể băng, mây ti không gây nguy hiểm cho hoạt động bay. Mây này không gây mưa.

Độ cao trung bình của mây này khoảng từ 7-10km

  1. Mây ti tích (cirrocumulus, viết tắt Cc): mây màu trắng, mỏng, phân bố thành hàng cụm hoặc như vết gợn trên bãi cát bờ biển, không gây mưa. Độ cao trung bình của loại mây này vào khoảng 6-8km.
  2. Mây ti tầng (cirrostratus, viết tắt Cs): mây màu trắng, không gây mưa, có khi che phủ cả bầu trời.

Tầng trung bình: 2000-6000 mét:

  1. Mây cao tích (altocumulus, viết tắt Ac): tương tự mây ti tích, nhưng các mảng riêng rẽ và lớn, sẫm màu hơn; độ cao 3-6 km
  2. Mây cao tằng (altostratus, viết tắt As): như tấm màn màu xám, hơi trắng đục, gây ra mưa; độ cao 2-5km

Tầng thấp: dưới 2000 mét:

  1. Mây tằng tích (stratocumulus, viết tắt Sc): mây màu trắng, dạng nấm, sóng hoặc luống; mây màu trắng, giữa xám là đục; độ cao 1-2km; mây này gây ra mưa nhỏ rải rác.
  2. Mây vũ tằng (nimbostratus, viết tắt Ns): có màu xám đồng nhất, bao trùm bầu trời, gây ra mưa lớn và kéo dài.
  3. Mây tích (Cu) độ cao 500-1500 mét, cho mưa rào
  4. Mây vũ tích (Cb) cho mưa lớn, mưa rào to, kèm theo sấm chớp

5. Kết luận

Mây trời đa dạng về màu sắc cũng như về độ cao. Có mây mới có mưa, giúp khí hậu bớt khô hạn. Mây trời là nguồn cảm hứng cho nhà thơ, nhà văn, nhà nhạc. Bình minh vàng, hoàng hôn tím là những đối tượng cho văn nhân, thi nhân. Nhà nhạc sĩ cũng gửi gắm lòng mình qua “Lời gọi chân mây”. Nhưng mây cũng chỉ là một giai đoạn trong chu kỳ nước của Trái Đất ta đang ở. Nếu bầu không khí bị ô nhiễm do xe cộ, nhà máy cứ tự do phát thải lên cao thì mây cũng có lúc nặng trĩu hơi nước và rơi lại xuống đất, làm nước ngầm, nước sông suối trở lại ô nhiễm vì ‘nước trôi ra biển lại mưa về nguồn’. Do đó, bổn phận con người là giữ môi trường không khí cho trong sạch, vì không khí có trong sạch thì mây mới trong sạch, tạo điều kiện cho mưa trên trời không ô nhiễm khi rơi lại xuống trái đất.

Thái Công Tụng